Post: : Admin

Hoà thượng Hải Thiệu Cương Kỷ theo bia ''Từ Hiếu Tự Yết Ma Đại sư tháp ký'' ở chùa Từ Hiếu thì Ngài con nhà họ Lê, sinh ngày 04-3-Canh Ngọ (1810) nguyên quán Xuân An, tổng An Đôn, huyện Đăng Xương, phủ Triệu Phong, Quảng Trị.



Hoà thượng Cương Kỷ (1810 – 1899) chùa Từ Hiếu

Hoà thượng Cương Kỷ (1810 – 1899) chùa Từ Hiếu


Lúc thiếu thời theo Nho học. Năm hai mươi bốn (24) xuất gia, thờ Hoà thượng Tánh Thiên Nhất Định làm thầy. Hai mươi lăm tuổi, nhằm ngày Phật đản 8-4-Giáp Ngọ (1834) được Bổn sư thế độ, truyền cho Sa-di thập giới; được Pháp húy Hải Thiệu. Năm Đại sư 31 tuổi được thọ Cụ túc giới, sau đó theo Bổn sư lên đồi Dương Xuân lập thảo am. Năm 35 tuổi, ngày 12-11-Giáp Thìn (1844), Đại sư được Bổn sư trao Kệ phú Pháp:

綱  紀  經  權  不  執  方
隨  機  應  用  善  思  量
朝  朝  將  識  難  尋  跡
日  日  穿  衣  喫  飯  常

Phiên âm:
Cang kỷ kinh quyền bất chấp phương,
Tùy cơ ứng dụng thiện tư lương.
Triêu triêu tương thức nan tầm tích,
Nhật nhật xuyên y khiết phạn thường.
Nguyên Hồng dịch:
Cương kỷ kinh quyền chẳng chấp phương
Tùy cơ ứng dụng khéo tư lương
Sớm tối dẫu quen tìm ít gặp
Cơm ăn, áo mặc: đó chuyện thường.
Như vậy, Hoà thượng Cương Kỷ là đời thứ 40 dòng Thiền Lâm Tế, nhưng là đời thứ sáu Pháp phái Liễu Quán; Pháp đệ của Hoà thượng Hải Thuận - Lương Duyên.
Sau khi Hoà thượng Nhất Định viên tịch, Hoà thượng Cương Kỷ với sự ngoại hộ của toàn thể Thái giám ở Cung Giám Viện, đại trùng kiến ngôi thảo am thành tự vũ. Chú tạo Pháp tượng, Pháp khí trang nghiêm để thờ tự, và triều đình tâu lên vua Tự Đức ban ''Sắc tứ Từ Hiếu Tự'', lạc khoản biển hiệu chùa đề Tự Đức nguyên niên (1848). Từ năm này trở lui, Hoà thượng làm Trú trì chùa Từ Hiếu, xiển dương giáo pháp. Đồ chúng ở Huế lên chùa xin quy y nghe pháp đông có tới sáu bảy trăm người, được lưu Kệ phú Pháp có đến 13 vị.


Năm Giáp Ngọ dưới triều Thành Thái (1894), Hoà thượng lại trùng tu Từ Hiếu một lần nữa. Cũng trong năm này Hoà thượng cùng với Pháp huynh là Hoà thượng Diệu Giác ở Báo Quốc mở Đại giới đàn. Ban kiến đàn đã cung thỉnh Hoà thượng làm Yết ma A-xà-lê tuyên luật sư.

Hoà thượng Cương Kỷ có một dị tướng là hàng lông mi dài che lấp cả mắt, khi muốn nhìn ai hoặc muốn đọc Kinh sách, Hoà thượng phải lấy tay xách hàng lông mi lên nhìn; xong thì thả xuống. Khi thả lông mi xuống, Ngài không thấy gì cả.


Truyền thuyết kể rằng, vua Thành Thái thường lên chùa để thăm và đàm đạo Phật lý với Hoà thượng. Có lần vua lên, nhẹ nhàng đến bên Hoà thượng, để nhẹ tay lên Ngài. Hoà thượng hỏi. Vua đáp: “Thưa Hoà thượng, Thành Thái đây.” Hoà thượng lấy tay xách mi mắt lên nhìn và hỏi: “Vua đó à?” Sẵn dĩa sắn thị giả bưng lên, Hoà thượng đưa tay mời vua ăn một cách tự nhiên, vô ngại. Đình thần hộ giá và các sư trong chùa sợ xanh mặt. Vua cũng ăn sắn với Hoà thượng rất bình thường.


Việc Hoà thượng mời vua ăn sắn là một bài Pháp tuyệt vời về bổn phận đấng quân vương phải nghĩ đến dân, sống ngay cái sống đạm bạc đến cực khổ của dân: ăn sắn khoai trừ bữa. Có lẽ nhờ đó và hiểu được đạo, nên vua Thành Thái đã là một vị vua có tinh thần yêu nước, thương dân.
Hoà thượng Cương Kỷ có làm một bài “Tự Thống” để cho mình, và 15 lời nguyện hiện còn khắc ở bia đá trên tháp Ngài.
- Bài “Tự Thống”:
“雖 年 百 歲 猶 若 剎 那, 如 東 逝 之 長 波, 似 西 垂 之 殘 炤, 擊 石 之 星 火, 驟 隙 之 迅 駒, 風 裡 之 微 燈, 草 頭 之 朝 露, 臨 崖 之 朽 壽 爍 目 之 電 光, 若 不 遇 於 正 法,必 永 墜 於 幽 途 矣”
Phiên âm: “Tuy niên bách tuế do như sát na; như đông thệ chi trường ba, tợ tây thùy chi tàn chiếu, kích thạch chi tinh hỏa, sậu khích chi tấn câu, phong lý chi vi đăng, thảo đầu chi triêu lộ, lâm nhai chi hũ thọ, thước mục chi điện quang. Nhược bất ngộ chánh pháp, tất vĩnh trụy ư  u đồ hỷ”.

Tạm dịch: “Trăm năm nháy mắt, như nước chảy về Đông, trời Tây tàn nắng. Đá lửa, sao xẹt, cửa sổ ngựa qua. Trước gió ngọn đèn, sương mai ngọn cỏ. Bên bờ cây mục, điện chớp một giây. Nếu không gặp chánh pháp ắt rằng đọa u đồ vậy.” (Nguyên Hồng)


Đây là 15 lời đại nguyện của Đại sư:
余 年 更 午 二 十 四 出 家 二 十 五 剃 落 三 十 一 受 具 三 十 五 得 法 住 持 本 寺 四 十 三 星 霜 任 染 然 花 些 陀 歲 月 不 覺 而 山 募 散 影 邪 輝 而 於 八 十 一 字 我 一 心 發 十 五 願 仰 祈 大 覺 府 作 證 明 垂 加 哀 授 所 妄 月 慈 如 左 : 一 願 身 形 異 俗 不 似 白 衣
二 願 口 常 清 淨 莫 說 是 非 ,三願 意 行 平 正 有 別 尊 卑 ,四 願 心 能 忍 辱 捨 貪 瞋 癡 ,五 願 午 中 一 食 不 過 後 辰 ,六 願 維 持 細 行 不 失 威儀 ,七 願 梵 宇 牢 固 佛 殿 光 輝 ,八 願 居 得 安 穩 日 月 無 虧 ,九 願 弟 子 眾 等災 難 永 離 ,十 願 壇 那 施 主 福 壽 康 熙 ,十 一 願 冤 親 平 等 同 赴 蓮 池 ,十 二 願 寂 滅 晨 至 獲 預 先 知 ,十 三 願 端 然 坐 化 隻 履 西 歸 ,十 四 願 不 生 不 滅 了 證 無 為 ,十 五 願 早 成 佛 道 廣 度 群生 .

Tạm dịch:
Tôi năm Canh Ngọ ( 1810), 24 tuổi xuất gia, 25 tuổi thế độ, 31 tuổi thụ Cụ túc giới, 35 tuổi đắc pháp, 43 năm trụ trì chùa này. Thắm thoát tuổi trẻ trôi đi, lần lữa tháng năm hết, chợt thấy núi tây sắp tối, tuổi bóng  xế chiều, mà nay đã 81 rồi! Tự mình một lòng phát nguyện 15 lời, ngưỡng mong chư Phật dũ lòng chứng giám, thương xót thu nhận cho tấm lòng này. Lời nguyện như vậy:
1. Thân hình khác tục chẳng giống bạch y.
2.  Miệng thường thanh tịnh chẳng nói thị phi.
3. Ý hành bình chánh không nệ hèn sang.
4. Tâm thường nhẫn nhục bỏ tham sân si.
5. Một bữa đúng ngọ, chẳng trể bao giờ

6. Giữ gìn tế hạnh chẳng mất oai nghi.

7. Phạm vũ vững chắc, điện Phật sáng ngời.
8. Sống luôn an ổn, nhật dụng đủ đềui.
9. Các chúng đệ tử tai nạn lìa xa.
10. Đàn-na thí phúc thọ an vui.
11. Oán thân bình đẳng đồng đến Liên trì.
12. Đến giờ tịch diệt được biết trước liền.
13. Ngồi ngay mà hóa như  Tổ về Tây.
14. Không sinh không diệt ngộ chứng vô vi.
15. Sớm thành Phật đạo, khắp độ người mê.
(Nguyên Hồng)
Ngày mồng 01 tháng 3 năm Mậu Tuất (1899) tức là năm Thành Thái thứ 11, Ngài viên tịch, tuổi đời thọ 89. Tháp Ngài ở phía tay trái của chùa, cao 7 tầng, xung quanh có thành, trước có bốn trụ biểu và nhà bia. Đó là bia “Từ Hiếu tự Yết-ma Đại sư tháp ký”. Mặt sau khắc 15 lời nguyện trên.

Bia tháp ghi: “Sắc tứ Từ Hiếu Tự Trú trì Lâm Tế húy Hải Thiệu Yết-ma A-xà-lê đại lão chi tháp.”


HT.Thích Trung Hậu - Thích Hải Ấn
Trích sách Chư Tôn Thiện Đức & Cư Sĩ Hữu Công Phật Giáo Thuận Hóa - Tập 1
Nhà xuất bản: Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh năm 2011