Xin xem bộ phim ngắn do Tanwarin Sukhapisit thực hiện có tiêu đề Tỳ-kheo-ni1. Một phụ nữ tìm đến một nhà sư thuộc một Tăng đoàn (saṅgha) Thái và xin được xuất gia. Vị sư từ chối bởi vì điều đó bị cấm; cô ấy là một phụ nữ.
Người phụ nữ biện hộ cho trường hợp của mình bằng việc nói rằng, “Tôn giáo đem lại cơ hội cho những ai có tín tâm, chứ không phải xem xét giới tính của họ là gì, có đúng vậy không thưa sư? Vì tất cả mọi người đều có những quyền như nhau đối với Phật giáo”. Vị sư giải thích rằng mọi người đều có cơ hội chứng đắc Niết-bàn mà không cần phải xuất gia thọ giới. Nghe vậy người phụ nữ hỏi lại, “Vậy thì tại sao sư lại xuất gia?”. Một cảnh sau đó thay người phụ nữ bằng một người phụ nữ chuyển giới và vị xuất gia lúc này là một Tỳ-kheo-ni. Vị Tỳ-kheo-ni này thọ giới Cụ túc ở Sri Lanka và có thể nhận người nữ xuất gia. Nhưng câu chuyện không có gì khác. Người phụ nữ chuyển giới tìm đến vị Tỳ-kheo-ni và xin được xuất gia. Vị Tỳ-kheo-ni từ chối lời thỉnh cầu của cô bằng việc viện dẫn rằng bởi vì cô là một người “chuyển giới” nên cô không thể làm Ni được.
Hoa hậu chuyển giới Thái Lan Sorrawee Nattee trở lại thành đàn ông và xuất gia thọ giới
Người phụ nữ chuyển giới từ tốn đáp lại, “Nhưng con đã phẫu thuật rồi”. Vị Tỳ-kheo-ni nói rằng điều đó chỉ biến cô thành một người “chuyển giới”, và Phật giáo không cho phép những người như cô xuất gia. Người phụ nữ chuyển giới vẫn nhẫn nại thưa, “Nhưng thưa cô, những người chuyển giới không phải cũng là con người như cô sao?”. Bộ phim ngắn này cụ thể nói về đề tài chuyển giới trong truyền thống Phật giáo Thái Lan, nhưng chuyển giới cũng đang ảnh hưởng đến sự thay đổi trong những truyền thống Phật giáo khắp thế giới bằng việc thách thức cách giới tính được hiểu trong Tăng đoàn.
Quan niệm về giới tính hiện đại không quá khác với quan niệm của những Phật tử xa xưa. Ví dụ, cả hai phân loại giới tính dựa trên ba đặc điểm: chính yếu (giới tính giải phẩu học), thứ yếu (sự biểu hiện giới tính), và thứ ba (nhận dạng giới tính). Cả hai bao gồm nam, nữ và những người liên giới tính, và cả hai thừa nhận rằng có những giới tính khác ngoài ba loại này. Tuy nhiên, quan niệm về giới tính hiện đại bao gồm ngôn ngữ nói về việc chuyển giới và có một cách hiểu cụ thể về chuyển giới, trong khi những bản kinh Phật giáo không có. Thuật ngữ “chuyển giới” (transgenderism) là một khái niệm lệch nhịp với ngôn ngữ và cách hiểu của những học giả Ấn Độ cổ đại.
Tuy nhiên, nói rằng chuyển giới không tồn tại trong kinh điển Phật giáo là một sai lầm. Có nhiều minh họa trong kinh điển Phật giáo mà chúng cho thấy rằng việc thay đổi giới tính của một người là điều có thể. Nhưng quá trình thực hiện cổ xưa được giải quyết bằng thần lực và lời nguyện hơn là bằng các bác sĩ, tuy nhiên giới tính có thể được chuyển đổi một cách hiệu quả từ người này sang người khác. Bởi vì các Phật tử không có một hệ thống giáo lý rõ ràng liên quan đến việc xử lý những người chuyển giới bên trong Tăng đoàn, những người có thẩm quyền trong Phật giáo không thể giải quyết việc xuất gia cho người chuyển giới như thế nào và cách biện minh cho những quyết định của họ trong từng trường hợp cụ thể ra sao. Cách hiểu hiện đại về chuyển giới thì khác với khái niệm giới tính trong kinh điển, và bản thân kinh điển cũng không nhất quán và không rõ ràng trong việc giải quyết những vấn đề giới tính.
Khái niệm giới tính hiện đại bao gồm: dị tính (cisgender), giới tính bất bình thường (gender queer), liên giới tính (inter-sex) và những người chuyển giới. Những đặc điểm chính yếu, thứ yếu và thứ ba của người dị tính tất cả được hiệu chỉnh. Những đặc điểm thứ yếu của người bất thường giới tính không khớp với hai đặc điểm khác. Những người liên giới tính có những đặc điểm chính mơ hồ. Những người chuyển giới, như được định nghĩa bởi GLAAD.org, một trong những nguồn truyền thông hàng đầu của Hoa Kỳ dành cho những vấn đề LGBT, là những cá nhân “mà việc nhận dạng giới tính của họ một cách đặc thù khác với giới tính mà họ được quy cho vào lúc sinh”2. Nói cách khác, những đặc điểm thứ ba của người chuyển giới không khớp với những đặc điểm chính yếu và thứ yếu. Y học hiện đại cung cấp cơ hội cho những người chuyển giới; họ có thể trải qua một cuộc phẫu thuật tái tạo và trở thành một người dị tính.
Cách hiểu của Phật giáo về giới tính không quá khác với cách hiểu hiện đại này. Pārājikam của Suttavibhaṅga (Phân tích giới bổn), mà nó bao gồm phần giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa (pātimokkha) của Luật tạng và luận giải của nó, xác nhận bốn loại giới tính: nam (purisa), nữ (itthi), liên giới tính (ubhatovyañjanaka), và paṇḍaka (nghĩa đen là ‘không có tinh hoàn’)3. Người dị tính hiện đại được hiểu nơi khái niệm giới tính của Phật giáo cổ đại là nam và nữ, và những người liên giới tính cũng được gộp vào đó. Người có giới tính bất thường và người chuyển giới không được nói một cách cụ thể, nhưng việc phân loại paṇḍaka ít nhất dùng để giải thích những người có giới tính bất thường, bởi vì nó tập trung vào những người chệch ra khỏi việc thể hiện giới tính của họ theo những tiêu chuẩn xã hội thích hợp.
Leonard Zwilling, Giáo sự danh dự tại Đại học Wisconsin-Madison và có bằng tiến sĩ về nghiên cứu Phật học, xem xét lại năm loại paṇḍaka được ba nhà luận giải Phật pháp hàng đầu chấp nhận: Phật Âm (Buddhaghosa), trong Samantapāsādikā; Vô Trước (Asaṅga), trong Abhidharmasamuccaya; và Thế Hữu (Yaśomitra), trong luận giải của ông về Abhidharmakośa.4 Năm loại paṇḍaka là: jāti hay prakṛtipaṇḍaka (bất lực/liệt dương), īrṣyapaṇḍaka (người thích rình mò chuyện tình ái của người khác), pakṣapaṇḍaka (nửa tháng có khả năng và nửa tháng bất lực), āsekap- hay āsecanapaṇḍaka (những người đồng tính), và āpatpaṇakḍa (tìm sự cực khoái bằng những thủ thuật đặc biệt)5. Zwilling cũng nhận xét rằng Thế Hữu hơi khác với Phật Âm và Vô Trước bằng việc thay phân loại cuối āpatpaṇakḍa, bằng lūṇapaṇḍaka (thiến).6 Mặc dù khái niệm giới tính này triệt để ở trong Suttavibhaṅga, việc chuyển đổi giới vẫn vắng mặt. Tuy nhiên, ta có thể thấy một hình thức biến đổi giới tính xuất hiện trong kinh điển, mặc dù nó ít liên quan đến việc quản lý đời sống xuất gia mà liên quan nhiều đến vấn đề triết học.
Trong A-tỳ-đàm tạng và kinh tạng, có những ngụ ngôn mà chúng giải thích những khái niệm trừu tượng theo một cách thức mà người thế tục có thể hiểu. Nơi những kinh sách này, chúng ta có thể tìm thấy những câu chuyện mà qua đó cho thấy việc chuyển giới thể hiện những vấn đề giáo pháp chẳng hạn như lòng từ bi, tính Không (śūnyatā) và phương tiện thiện xảo (upāya). Bản kinh cụ thể là kinh Duy Ma Cật sở thuyết (Vimalakīrtinirdesha Sutra). Ở đây tôi trích dẫn bản dịch của Robert Thurman vào năm 1976. Phần bảy, tiêu đề “Thiên nữ” ở phẩm Phương tiện, thuật lại sự việc Duy Ma Cật giảng pháp cho một nhóm Tỳ-kheo ở trong một ashram (đạo viện). Tiêu điểm ở câu chuyện này là tánh Không (śūnyatā), và sự chuyển đổi giới tính được sử dụng như một phương tiện để chứng minh rằng giới tính không có gì khác hơn ngoài một khái niệm thế gian mà nó không quyết định việc một người có thể chứng đắc được Niết-bàn hay không.
Duy Ma Cật đang giảng giải Phật pháp cho Văn Thù và Xá Lợi Phất thì vào cuối buổi thuyết giảng, một thiên nữ xuất hiện và rải hoa lên hội chúng. Hoa rơi xuống nhưng không bám vào Bồ-tát và những người giác ngộ khác ở đó, mà chúng bám vào Xá Lợi Phất cùng những vị Thanh văn khác. Xá Lợi Phất nghĩ rằng những bông hoa này không phù hợp cho các bậc Thánh giả và hỏi thiên nữ rằng tại sao ông không thể rũ bỏ được những bông hoa. Thiên nữ giải thích rằng chỉ những ai thoát khỏi những bản năng cảm xúc thì những bông hoa này không bám vào. Xá Lợi Phất sau đó hỏi thiên nữ là tại sao cô không rũ bỏ được “tình trạng nữ nhân” hay thân nữ của cô.
Khi ấy, bằng thần lực của mình, thiên nữ biến Xá Lợi Phất thành thiên nữ và chính cô thành Xá Lợi Phất. Với giới tính bấy giờ đã được hoán đổi, thiên nữ đặt cho Xá Lợi Phất câu hỏi tương tự, “Thưa ngài Xá Lợi Phật, tại sao ngài không chuyển đổi trạng thái thân nữ của ngài đi?”7. Xá Lợi Phất thừa nhận rằng ngài không biết do sự chuyển biến gì mà ngài có thân của một người nữ. Thiên nữ giải thích giới tính vốn là không (śūnyatā), và cô trích lời của Phật rằng “Hết thảy pháp đều phi nam phi nữ”8. Sau khi đưa ra quan điểm của mình, thiên nữ lại sử dụng thần lực để chuyển đổi mình và Xá Lợi Phất lại nguyên hình thức của họ. Để đưa quan điểm của mình xa hơn, cô hỏi Xá Lợi Phất những gì đã xảy ra với hình hài nữ nhân của ngài. Xá Lợi Phất trả lời, “Tôi không tạo ra nó nên tôi cũng không thay đổi nó”9. Một giải thích cho trả lời của Xá Lợi Phất là giới tính chỉ là một điều kiện thế tục và không ảnh hưởng gì đến việc đạt đến Niết-bàn, nhưng giải thích khác có thể hàm ý rằng Xá Lợi Phất chỉ mang thân của một nữ nhân nhưng hoàn toàn không phải là một nữ nhân bởi vì một người nữ bên ngoài ngài không được tạo ra cũng không thay đổi. Về cơ bản, ngài vẫn là nam giới mặc dù ngài mang một thân nữ.
Những bản kinh khác mô tả về việc biến hóa giới tính, hay một hình thức của “chuyển giới”, bao gồm Phật thuyết Nguyệt Thượng nữ kinh (佛說月上女經), Pháp hoa kinh (妙法蓮華經), và Đại bát-nhã ba-la-mật-đa kinh (大般若波羅蜜多經). Tất cả những miêu tả này tập trung vào một thân nữ được chuyển đổi thành một thân nam như một cách thức giúp đạt lấy giác ngộ. Không có bản kinh nào trong số này thảo luận về một người mà việc nhận dạng giới tính của họ không khớp với giới tính phẫu thuật học và sự biểu hiện giới tính của họ, chưa nói đến việc có mong muốn và khả năng để chỉnh sửa lại như một người dị tính. Bởi vì tư tưởng gần nhất với việc chuyển giới hiện đại được đề cập trong kinh sách là một sự biến hóa giới tính huyền bí hay hy vọng được tái sanh như một giới tính khác, rõ ràng rằng những truyền thống Phật giáo hiện đại không có nền tảng giáo thuyết vững chắc để đề cập khi giải quyết những vấn đề chuyển giới hiện đại. Làm cách nào các cơ sở Phật giáo tiếp cận việc chuyển giới nếu kinh điển không đề cập cụ thể về điều này?
Có một truyền thống đặc biệt xem khái niệm chuyển giới không phải là một vấn đề quan trọng. Trong một cuộc phỏng vấn vào ngày 19 tháng 10 năm 2013, Ni sư Kyoki giải thích truyền thống Phật giáo Thiền Soto và quan điểm chính thức của hội này về vấn đề chuyển giới. Ni sư Kyoki, một người liên giới tính công khai, đã thực hành Thiền Phật giáo Soto 20 năm, và bà hiện là người đứng đầu Trung tâm Thiền Pittsburgh, chùa Thâm Xuân (Deep Spring Temple). Bà giải thích rằng, truyền thống của bà nhấn mạnh ít vào giáo thuyết mà nhấn mạnh nhiều vào những lời dạy thể nghiệm được truyền từ thầy xuống trò. Trong mọi trường hợp nảy sinh, bà được dạy và dạy rằng một người nên luôn theo những thực hành thiền của họ, những thực hành nhiệt tâm của họ, và học những gì mà những vị thầy quá khứ đã nói về một vấn đề nếu nó được giải quyết rõ ràng. Nếu có tình huống mới nảy sinh, Ni sư Kyoki giải thích vấn đề thích hợp là tự vấn mình, “Điều đó có đúng vào thời điểm này không?”.
Ngoài những cách thức mà Ni sư Kyoki vận dụng để giải quyết những vấn đề hiện đại với sự linh hoạt, bà cũng viện dẫn rằng toàn bộ khái niệm về giới tính bên trong giáo đoàn không phải là vấn đề quan trọng bởi vì Thiền Soto của bà nhấn mạnh vào đời sống độc thân. Bà giải thích rằng giới tính sẽ không bao giờ được nói đến giữa thầy và trò trừ phi học trò khai mở chủ đề bởi vì đời sống độc thân không xem việc giới tính là cần thiết phải bàn đến. Nếu một đệ tử đang đấu tranh với việc nhận dạng giới tính, Ni sư Kyoki giải thích rằng phương tiện thiện xảo (upāya) sẽ được thực hiện để giúp người ấy cảm thấy thoải mái với chính họ và tiếp tục nỗ lực hướng đến giác ngộ một cách an bình. Không giáo lý nào được sử dụng trong truyền thống Thiền Soto của Ni sư Kyoki ngoài những giáo thuyết được trải nghiệm thực tiễn và phương tiện thiện xão (upāya), nhưng ở Thái Lan, giống như minh họa được trình bày đầu bài viết này, giáo pháp được sử dụng trong việc quyết định cho phép một người chuyển giới vào trong Tăng đoàn.
Trong một email trao đổi với Sư Shine Waradhommo Chai, một vị sư thuộc truyền thống Phật giáo Theravāda, vấn đề này được mô tả. Sư Chai giải thích rằng Tăng-già Thái Lan chính yếu là nam giới, và ông mô tả nó như một “Tăng-già gia trưởng (Patriarchy Saṅgha), do nam giới tổ chức và dành cho nam giới”. Nữ giới không thể có được vị trí chính thức nào trong Tăng-già Thái, nhưng cũng có một số ít ngôi chùa dành cho Ni có mặt. Sư Chai giải thích rằng cơ sở cho việc điều hành chùa chiền xuất phát cụ thể từ kinh điển, và như được giải thích ở trên, giáo lý xem thân nam là quan trọng này ủng hộ địa vị cao hơn của người nam và địa vị của những người không phải nam thấp hơn. Tuy nhiên, Sư Chai giải thích rằng ngay cho dù Tăng-già Thái Lan là gia trưởng, sự thực là Tăng đoàn chấp nhận cho những người chuyển giới xuất gia thọ giới miễn là những người ấy thể hiện được mình là một người nam.
Sư Chai kể lại hai câu chuyên cụ thể ủng hộ việc cho phép những người chuyển giới xuất gia miễn là họ thể hiện bản thân là nam giới. Trường hợp đầu tiên là về một người nam cần xuất gia trong một thời gian ngắn để báo ân gia đình, nhưng vị ấy là một người chuyển giới và được xác nhận là một người nữ. Trớ trêu thay, cô ấy phải trải qua một sự biến đổi thân thể: cắt đi mái tóc dài của mình, ép ngực nhỏ lại, và thể hiện tướng mạo đàn ông trước khi Tăng-già Thái chấp nhận cho xuất gia. Cô xuất gia sáu tháng để thực hiện bổn phận của mình đối với cha mẹ và sau đó quay lại đời sống tại gia. Một trường hợp khác nổi bật hơn. Jazz, một Hoa hậu chuyển giới vào năm 2009, tìm sự xuất gia trọn đời; và mặc dù cô hầu như đã hoàn toàn trở thành một phụ nữ sau khi đã cấy mô ngực và sinh hoạt như một phụ nữ ở trong xã hội, cô ấy vẫn giữ lại nam căn của mình. Tăng-già Thái đồng ý cho cô xuất gia nếu cô bỏ đi bộ ngực bởi vì cô vẫn còn nam căn. Cô ấy hiện đang xuất gia tại một ngôi chùa Thái ở miền Nam. Những người mà họ không thể hiện được họ là nam giới thì không thể được chính thức xuất gia thọ giới mà chỉ có thể được phép xuất gia tập sự. Ở Thái Lan, cho thấy rằng bất kể một người đã thay đổi giới tính của họ thế nào, chỉ cần họ có thể chuyển lại thành nam giới thì được phép xuất gia thọ giới.
Những gì mà những trình bày vắn tắt này chứng minh là, trong những cộng đồng Phật giáo hiện nay, có nơi việc quyết định nhận người xuất gia dựa vào trải nghiệm thực tiễn hơn là dựa vào giáo lý, và có khuynh hướng xem vấn đề giới tính không phải là điều đáng bàn đến; nhưng có những cộng đồng khác sử dụng giáo pháp làm căn cứ cho việc chỉ nhận người nam xuất gia thọ giới, và cũng bao gồm những người mà họ có thể chứng minh bản thân là người nam. Những ngôi chùa khác ở Nhật, Mông Cô, Tây Tạng và Giáo hội Phật giáo Hoa Kỳ (Buddhist Church of America) đã được người viết liên hệ để tìm hiểu quan điểm chính thức của họ về vấn đề xuất gia thọ giới của những người chuyển giới, nhưng công việc vẫn chưa đến đâu. Nghiên cứu thêm là cần thiết trước khi có bất kỳ kết luận nào đưa ra về khuynh hướng mà những tổ chức Phật giáo đang theo trong việc giải quyết vấn đề chuyển giới trong Tăng đoàn.
Dustin Hall
Huy An dịch – Nguyệt san GNO
__________________
(*) Phân khoa Tôn giáo, Đại học Florida.
(1) Tanwarin Sukhapisit, “Bhikkuni,” Youtube.com, August 3, 2013, https://www.youtube.com/watch?v=CSAWGNDfkGo.
(2) “Transgender 101”, GLAAD.org, 2013, http://www.glaad.org/transgender/trans101.
(3) Leonard Zwilling, “Homosexuality as Seen in Indian Buddhist Texts,” in Buddhism, Sexuality, and Gender, ed. José Cabezón (New York: State University of New York Press, 1992), 204.
(4) Leonard Zwilling, “Homosexuality as Seen in Indian Buddhist Texts”, 204.
(5) Ibid.
(6) Ibid.
(7) “The Goddess”, Vimalakīrti Nirdesha Sutra, translated by Robert Thurman, 1978, Pennsylvania State University, PDF.
(8) Ibid.
(9) Ibid.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
“The Goddess”. Vimalakīrti Nirdesha Sutra, translated by Robert Thurman. Pennsylvania State University, 1978. PDF.
Sukhapisit, Tanwarin. “Bhikkuni”, youtube.com. August 3, 2013. https://www.youtube.com/ watch?v=CSAWGNDfkGo.
“Transgender 101”. GLAAD.org. 2013. http://www.glaad.org/transgender/trans101.
Zwilling, Leonard. “Homosexuality as Seen in Indian Buddhist Texts.” In Buddhism, Sexuality, and Gender, edited by José Cabezón, 203-14. New York: State University of New York Press, 1992.