Thầy xuất thân theo Phật từ chốn Tổ đình Từ Đàm uy phong miền Trung. Bổn sư thầy, bậc tòng lâm thạch trụ Phật giáo thời hiện đại. Thầy hiệu là Trung Hậu, như bản chất vốn dĩ của thầy. Pháp tự thầy là Lệ Như, do ấn chứng của bổn sư, vị thượng nhân đạo phong cao vút.
Từ chốn tổ đình đất thần kinh xưa, thầy vào học Phật học viện Trung phần Hải Đức Nha Trang quê hương cát trắng biển xanh. Khi GHPGVNTN ra đời sau ngày 1/11/1963, Tổng vụ Giáo dục đặt tại Viện Đại học Vạn Hạnh thì thầy được vào tòng sự tại đó dưới sự dẫn dắt của vị Tổng vụ trưởng, vừa là Viện trưởng Viện Đại họcVạn Hạnh. Thầy thân tình với tôi từ ngày ấy.Thầy coi tôi như người em trong đạo pháp lẫn ngoài thế tục. Ngày ấy, tôi vừa học xong bậc trung học từ Báo Quốc Huế, bước chân vào Quảng Hương Già Lam Sài Gòn, dưới bóng vị Giám viện Tòng lâm thâm niên mà giới đức sáng chói như vì sao giữa bụi mù nhiểu nhương trần thế. Tôi có duyên phước được chư tôn đức thương , từ Ôn Long Quang thuở tấm bé hành điệu đến Ôn Báo Quốc, Ôn Già Lam thời gian sau nầy. Thầy biết như thế nên thầy cũng thương yêu tôi khi thầy và tôi gặp nhau ở Sài Gòn. Tôi nhớ mãi ngày thầy đích thân mang hồ sơ học bổng làm việc tại Viện Đại Học Vạn Hạnh về tận Quảng Hương Già Lam cho tôi lập thủ tục, rồi chỉ tuần sau tôi có tên trong danh sách được làm việc thực tập tại Tòa Viện Trưởng, biệt phái làm việc tại văn phòng Tổng thư ký Tổng vụ Giáo Dục dưới quyền thầy Hải Thanh mà hồi đó nhân viên gồm có thầy, cụ Trình, anh Nguyễn Khắc Từ, cô Lan và tôi.
Có một dịp thầy cùng các pháp hữu Minh Trí, Pháp Quyết ở Quảng Hương Già Lam từ Sài Gòn lên thăm Đà Lạt. Thầy Minh Tuệ, Quảng Thành, Như Mãn cùng thầy gặp nhau thân tình ở ngôi nhà nhỏ của gia đình Minh Quế ẩn khuất giữa đồi thông trên đường Lê Thái Tổ bấy giờ. Anh em cùng rủ nhau đi du ngoạn Vallé d-Amour chỉ cách trung tâm thành phố Núi chừng 6,7 cây số mà đường xa diệu vợi. Thung lũng tuyệt đẹp của cao nguyên hồi ấy còn hoang vắng, thiên nhiên, đâu đó chỉ in lại dấu chân người trên cỏ xanh non. Dáng thầy cao gầy in hình xuống mặt nước hồ trong xanh, đổ bóng lên đồi thông mênh mông dưới nắng vàng Đà Lạt. Thầy về thăm nhà ba tôi cùng các em tôi nơi ấp nhà vườn Thái Phiên. Mãi lâu sau đó thầy còn nhắc hỏi tới xóm nhỏ hoang sơ lác đác những căn nhà gổ thông , tường rào cũng dựng cây thông trồng hoa hồng gai nở những bông hoa màu hồng phấn.
Thời gian làm việc tại văn phòng Tổng vụ Giáo Dục kỷ niệm in dấu nhiều trong tôi ấy là Trại hè học sinh trường Bồ Đề toàn quốc diễn ra gần một tuần lễ tại rừng cao su Mai Hữu Xuân trên xa lộ Đại Hàn ; Lần khác là Trại Du khảo núi Tà Cú thuộc tỉnh Bình Tuy cũ. Tôi nhớ thầy thường nói cười dễ mến, gần gũi cùng mọi người.
Rồi 30/4/1975 đến, vào những năm đầu sau đó tôi còn gặp thầy thường khi ở Vạn Hạnh – Võ Di Nguy Phú Nhuận, tức Thiền Viện Vạn Hạnh hiện nay. Có những lúc cùng làm chao với nhau nơi hãng chao do thầy Chơn Nguyên quản lý . Thầy vẫn vậy, vẫn luôn hiền hòa thân tình với những đồng liêu, đồng sự. Trong khi bổn sư thầy thường trụ ở Ấn Quang vào thời kỳ “căng thẳng” sau biến cố hướng đạo một chính quyền đi vào con đường đầu hàng vì sự an nguy đất nước dân tộc. Bổn sư thầy chỉ có một đệ tử duy nhất là thầy, theo ông, vì thầy là Trung và Hậu. Thầy tận tụy bên vị thầy từ những ngày tháng Pháp Nạn Quý Mão 1963 mà thầy ông là người khởi phát cuộc vận động chống lại thế lực bạo quyền. Đó là những ngày tháng sinh mệnh đạo pháp ngàn cân sợi tóc. Rồi cũng qua đi, những mùa hoa đạo pháp lại nở ra thơm ngát. Thầy lại sau lưng thầy mình những ngày dầm sương giải nắng dưới chế độ quân sự cầm quyền, chỉ biết vòng kẽm gai, súng đạn và chiến tranh là tất cả. Thầycũng ngầm nghĩ và nói theo thầy mình : “Tôi nguyện hy sinh cho Phật pháp…”
Thầy đi thật sớm quá, trước vị bổn sư của thầy, bậc đạo sư hùng vĩ thời đại mà không bao lâu nữa lễ trà tỳ xảy đến đưa vị ấy hóa thân về thế giới Tây Phương, Cõi Trời Đâu Suất, Đao Lợi hay cung Di Lặc Nội Viện. Tôi mong vị ấy sẽ trở lại cõi Ta bà đầy sa mạc cháy bỏng, biển sinh tử mênh mông, hố thẳm nguy nan chết chóc sâu thẳm. Tôi tiếc là thầy không ở lại để nhìn thấy giờ phút thiêng liêng của thầy mình.
Suốt hơn thập niên gần đây, thầy đã hoàn thành công việc in ra mấy chục pho sách gồm kinh, luật và luận tạng do bổn sư thầy dịch, chú giải. Công trình pháp tạng đồ sộ như vậy, công đức của thầy không phải nhỏ; công đức vô lượng ấy, thầy thảnh thơi về Cõi Phật. Mọi sự khác chỉ như ráng nắng chiều hôm, sẽ tan theo bọt bèo ảo ảnh.
Kính tiễn biệt Hòa thượng Thích Trung Hậu
LÊ NGUYÊN THẢO