Bạn là người gắn bó với bộ môn nghệ thuật thư pháp này ư? Xin chúc mừng bạn vì bạn đã chọn cho mình một thú chơi thanh nhã, thú vị. Vậy trong quá trình cầm bút chắc hẳn bạn đã từng viết qua chữ TÂM? Việc viết thành chữ Tâm không khó, cái khó là việc thể hiện và hiểu rõ ý nghĩa chữ Tâm như thế nào.
Thư pháp Hoa Nghiêm – Khắc gỗ Trần Quốc Âu
Bắt đầu viết thư pháp, xin bạn đừng quên rằng, phải “ký hợp đồng” với sự kiên nhẫn trường kỳ. Việc viết không phải lúc nào cũng dễ dàng suôn sẻ cả. Có khi vài giờ viết hàng chục bức, mà có khi hàng tuần không viết nổi một bức. Rồi, những bức mình viết đâu dễ trở thành danh tác ngay. Có những tác phẩm mình đã vừa ý, chỉ sau một thời gian lại thấy mình non kém – cái bất toàn luôn hiện hữu trong cuộc sống – tuy thế, nó đã tạo cho ai đó trung tín với nó những lạc thú tuyệt vời. Bạn viết và tỏ ra thanh thản, nhẹ nhàng thì tác phẩm của bạn, người thưởng ngoạn cũng cảm thông với bạn như vậy. Và, có biết đâu, thời gian lâu sau nữa, nhiều người nhìn lại tác phẩm ấy, nhờ vào những câu bạn viết ra, đã đổi thành những cuộc đời tốt đẹp thì sao. Chắc bạn còn nhớ đến vụ án của đại gia Nguyễn Văn Mười Hai? Sau khi bị kết án và đến thụ hình tại trại Xuân Lộc, Luật sư Nguyễn Đăng Trừng đã bào chữa cho Mười Hai thoát khỏi án tử, lên thăm, cho ông hai trăm ngàn đồng và quyển sổ tay. Trong cuốn sổ tay ấy có ghi hai câu thi kệ của Mãn Giác Thiền Sư: “Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một nhành mai” (*). Nhờ hai câu thơ ấy, ông Nguyễn Văn Mười Hai có thêm nghị lực để vượt qua hoàn cảnh hiện tại… Đó phải chăng là phần thưởng quý giá nhất cho người cầm bút? Điều ấy chính là một phần từ cái “Tâm” đó bạn ạ! Nói như vậy, cũng có nghĩa, viết là để “thoát xác”, là tự giải thoát; và viết thư pháp cũng có nghĩa là ghi lên các chất liệu những điều mình suy nghĩ là có ích cho đời và gởi cho bao thế hệ như một “sứ điệp”. Chứ không phải viết lên những cái dung tục, tầm thường với nhận thức quá mỏng, lại tự cho mình một sứ mạng quá cao là đóng góp cho nền văn hóa dân tộc thì quả là lối nghĩ chỉ một tấc tới trời.
Là người viết thư pháp đấy bạn! Phải tuyệt đối trung thực và gắt gao với chính mình. Càng viết thư pháp lại càng phải hết sức khiêm tốn. Thật không có gì đáng phàn nàn cho người viết thư pháp bằng tật tự cao, tự mãn. Càng trước tác, ta càng phải nhìn tác phẩm của mình bằng cặp mắt phê bình nghiêm khắc. Vì mục đích viết thư pháp chính vì cái “Tâm” chứ không phải cái “Danh”. Bạn thử ngẫm mà xem, những câu ca dao, những phù điêu của người thợ thủ công vô danh vẫn tồn tại… Còn những thứ phù phiếm, dù được phong tước hiệu, thời gian cũng hóa thành phù vân khi xuất hiện trên đại chúng. Cho nên, hãy vui với tâm thiện mà tiến thân hơn là bị nhiễm độc vì những lời tung hô của kẻ tầm thường. Bởi vì giá trị của mình là ngay bản thân mình chứ không được định bằng dư luận.
Viết thư pháp có lắm người tài. Bạn chớ vội đề cao mình khi nhiều cao nhân vẫn còn ẩn. Tài hoa mà đi vào con đường luật này là chính thì càng tài hoa tuyệt vời, càng có lợi cho bản thân và xã hội. Tài hoa mà đi vào con đường tà thì càng tài hoa càng tai hại, năng khiếu và danh lợi chỉ tổ giúp cho cái xấu phát triển mà thôi.
Ngày xưa những người viết thư pháp thường là những bậc danh sĩ, những ông đồ già, những vị tu hành; ngoài viết chữ đẹp ra họ còn là những người hiểu biết uyên thâm, uyên bác, có đức độ cao siêu. Hội đủ các yếu tố đó, họ mới được tín nhiệm để cho chữ. Người cho chữ phải đạt như vậy mới viết ra được những câu cú thâm sâu, hàm súc, mới nhìn thấu được tâm khảm của người xin chữ để viết câu gì cho phù hợp với họ và hiểu được những gì mình viết ra. Có thế thì bức chữ viết mới có giá trị, người xin chữ đem về không thể xếp xó, mà treo trong nhà như một biểu hiện tinh thần cao đẹp của cuộc sống gia đình và của bản thân người nhận, từ cái nhìn của bậc tài đức ấy. Còn nếu là những bức liễn để thờ thì càng tăng thêm phần trang trọng, sự tín ngưỡng vì nó đã được viết ra từ một hiền nhân được mọi người kính phục. Từ đó cho thấy tác phẩm thư pháp có giá trị hay không là do con người, chứ không phải con người có giá trị từ những bức thư pháp. Vì bên cạnh các giá trị nội tại và nghệ thuật ấy, bộ môn nghệ thuật thư pháp đã cung cấp cho chúng ta một số kiến thức đại cương rất có giá trị về văn hóa Đông Phương. Cho nên, các nhà thư pháp khi đưa tác phẩm của mình ra trước công chúng thì phải là những tác phẩm có giá trị, chứ không thể trưng bày những sản phẩm tầm thường lại bắt mọi người nhìn bằng cặp mắt thanh cao như một số trường hợp đã diễn ra hiện nay.
Vì thế, chữ Tâm trong thư pháp muốn đề cập ở đây là lòng thành thật đặt ở đầu ngọn bút. Và lòng thành thật thì luôn gặp trở ngại. Tôi muốn nói với bạn rằng không có ngọn đèn nào thắp lên mà không tạo ra một quầng tối vây quanh. Bạn sẽ chắc mẩm phải đối đầu với những thị phi và thực tế là những lời khen chê. Bạn chấp ư? Ngày xưa Thượng Thư Tiến Sĩ Tuấn Quận Công Dương Văn An đã nói rằng: “Xem lời khen một người thiện thấy vinh dự hơn cả việc được áo gấm vua ban, nên phải nuôi lòng hâm mộ đấng trung nghĩa để rồi cố noi theo. Xem lời chê một người ác, thấy ghê gớm hơn cả búa rìu, thì phải biết xấu hổ thay cho kẻ loạn tặc để rồi luôn tự răn mình”! Cổ nhân ta còn nói một ý khác nữa rằng “không sợ người tốt coi ta là kẻ xấu, chỉ sợ kẻ xấu coi ta là tri kỷ mà thôi”. Chấp mà có những nhận thức trên thật giá trị, nhưng nếu không chấp bạn còn sẽ thấy giá trị hơn nữa “Tri vọng thị phi, tâm chi thích dã” (Biết quên thị phi lòng thông suốt – Trang Tử).
Thế nhưng, phần lớn chúng ta vẫn chưa vượt ra khỏi cái không chấp. Lời khen chê, có hay mà cũng có dở, song chung qui mặc kệ chúng. Cần nhất bạn viết sao cho người đời hiểu và tôn trọng là vấn đề chông gai vô cùng. Cầm bút, bạn hãy tư duy về câu của Nietzshe: “Người ta luôn luôn được khen hay bị chê song ít ai được hiểu”. Chê khen thường là việc đứng phía chủ quan, “được hiểu” đứng phía khách quan. Trong cuộc đời làm nghệ thuật, nếu bạn được ai đó hiểu thì thật là hạnh phúc. Nhất là trong số những người hiểu bạn, được vài tâm hồn cao thượng, có bộ óc lỗi lạc khuyến khích, động viên chắc mẩm bạn sẽ thành công.
Mặt khác, phần nhiều các nhà thư pháp hiện nay vẫn sử dụng một số tư tưởng của cổ nhân để diễn đạt ý tưởng mình; thì chúng ta lại phải tự hỏi rằng, khi sử dụng những tư tưởng ấy chúng ta thường tâm đắc với những lời dạy thâm thúy, cao siêu và cho rằng người xưa giỏi, người xưa hay, vậy, phải chăng giờ đây nhân tài đã cạn, người nay đều vô dụng cả? Thật là nan giải! Chúng ta chăm chú tìm gương sáng của người xưa, cho nên, hầu như chỉ thấy người xưa là đấng hiền tài khả kính. Nhưng, nếu như chúng ta không có ý chăm chú làm như vậy thì kết quả chắc cũng sẽ tương tự như thế mà thôi. Tất cả đều bởi cái TÂM của các cây đại bút thuở xưa. Họ bền bỉ viết những lời tôn vinh đấng hiền tài để giúp đời sửa đức ích lợi không phải nhỏ. Chúng ta không nghĩ nhân tài ngày nay đã cạn. Bởi vì, nếu vậy giang sơn nòi giống làm sao bảo tồn? Nhưng nếu như người nay mà không biết noi theo những điều hay, trong đó có không ít những điều hay của chính tổ tiên mình thì sự mai một nhân tài là điều rất có thể.
Cho nên, khi cầm bút viết thư pháp đều hàm súc ý nghĩa hướng dẫn. Không phải hễ viết là giáo huấn. Song, ngoài phần nghệ thuật luôn luôn có phần gợi cho người thưởng lãm suy nghĩ thực hiện điều gì đó. Nếu người cầm bút có quan niệm sai lạc thiển cận về nhân sinh, về vũ trụ, về hậu kiếp xem như họ tự dấn thân và dẫn dắt mọi người vào con đường lầm lạc. Người xưa nói làm văn hóa sai lầm giết muôn đời là nói điều đó. Ngày nay, vì phong trào viết thư pháp đang ở chiều hướng “thương mại hóa”, nên không ít những người cầm bút, thay vì phát huy cái ý nghĩa cao đẹp của bộ môn nghệ thuật thư pháp, thì họ đã làm công việc ngược lại. Sử sách Trung Quốc có ghi nhiều bậc thánh hiền, từ Khổng Tử đến Nhan Hồi đều đã từng khất thực, không phải vì cái ăn mà vì cái đạo, cái nhân nghĩa, gọi chung là Tâm đạo. Cho nên, chữ Tâm luôn được tồn tại trong thư pháp, tách rời chữ Tâm không còn là thư pháp nữa. Thật là đáng buồn khi truyện ngắn tuyệt vời “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân trong “Vang bóng một thời” vẫn không cảnh tỉnh nổi cho đời một bài học về thư pháp. Một kẻ tài hoa, khí tiết như Huấn Cao đến lúc cận kề dưới lưỡi đao hành quyết vẫn ngạo nghễ ngẩng cao đầu. Và Huấn Cao chỉ chịu cho chữ khi đã cảm nhận được tấm lòng tri ngộ của viên quan coi ngục, không quên dặn người nhận hãy tìm một nghề “giữ được thiên lương cho lành vững rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ…”. Một viên quản ngục tìm mọi cách để cầu xin chữ của người tử tù. Chỉ có những người biết cảm nhận được giá trị của nét chữ mới có được sự trân trọng nhường kia đối với khách tài hoa. (Hồn chữ trên đá – Huỳnh Ngọc Chiến).
Cho nên, càng “sống” với thư pháp nhiều năm, bạn càng phải hết sức cẩn trọng và khiêm nhường. Có nhiều người viết thâm niên dễ mắc phải cái bệnh tự mãn, hay coi thường, hạ bệ các đồng nghiệp. Nếu không khen được ai thì cũng động viên, nâng đỡ, tuyệt đối không bôi nhọ kẻ khác. Còn nếu bạn cho mình vai trò phê bình thì xin hết sức cẩn thận. Nếu phê bình thì sự hiểu biết phải thâm sâu hoặc chí ít bạn phải ngang tầm với kẻ ấy. Phê bình là giúp mọi người thưởng thức nghệ thuật, nhận định chính là giúp tác giả học hỏi hay sửa chữa cái sai, xây dựng văn hóa của dân tộc tiến bộ. Phê bình không nghĩa là hại kẻ khác. Phê bình không phải theo dõi xoi mói nghệ thuật. Phê bình càng không phải là leo lên ngọn núi Thái Sơn rồi nói với mọi người rằng mình cao hơn thiên hạ. Nếu định làm nhà phê bình, bạn phải biết nhiều về những khía cạnh văn hóa của kim cổ Đông Tây, phải có tầm nhìn xa, có óc hiểu rộng và cần nhất là cái tâm thiện chí xây dựng. Đừng làm công việc phê bình trong thời gian ngắn với những con người và tác phẩm đã thâm niên. Các hiền nhân đã dặn chúng ta như vậy. Thật không có gì cay đắng cho bằng phê bình mà bị người ta coi mình như con rắn chỉ thích rình người để phun nọc độc. Tuyệt đối đừng bao giờ khen chê những gì ngoài sức hiểu biết của mình. Nên nhớ, phê bình là làm công tác hướng dẫn, biết thẩm định và hướng mọi người thẩm định. Khi phê bình, không ai cầu xin lòng bác ái của bạn, mà nhất định bạn phải thượng tôn luật công bằng. Chung lại, thưa bạn! Tối hệ cho người cầm bút, nhà thư pháp hay nhà phê bình, là âm thầm làm việc, cần mẫn sáng tạo, tích cực tư duy, đẽo gọt nghệ thuật. Xã hội cần ở nơi ta con người có tâm huyết giúp mọi người, chứ không cần kẻ lười biếng, cẩu thả và bôi nhọ kẻ khác. Mặt khác, có những người suốt đời tuyên ngôn rằng mình trong sạch, lên án nặng nề những thành phần mà họ cho là xấu, là vô liêm… Nhưng, cuối cùng, nhiều người trong họ lại cư xử theo đúng tinh thần của cái mà họ khinh bỉ. Trong giao tiếp hàng ngày, nhiều khi vì lịch sự, chúng ta phải tạm xếp cái cá nhân chính đáng của mình lại, để xây nên nền tảng tốt đẹp cho các mối quan hệ. Nhưng không phải là khi bộ môn nghệ thuật thư pháp đã chuyển qua “kinh doanh hóa”, và theo cái đà ấy mà đi, nhân danh sự kiếm sống, ta tự cho phép làm tất cả những việc ta vốn không thích, miễn làm vừa lòng khách hàng của mình. Với vốn thiêng liêng đáng ra phải mang tất cả tình cảm và hứng thú ra để làm, lại tiến hành một cách máy móc, theo nguyên tắc của một quán nước: khách nào cũng mời ngồi, có tiền là phục vụ, tiền trao cháo múc một cách đại trà… Càng làm những nghề quan hệ với công chúng rộng rãi, cái nguy cơ đánh mất mình ngày càng lớn. Như trong việc viết thư pháp mà chúng ta đang nói đã làm lệch chiều các giá trị. Những cây bút nào nhận viết về những câu cú không phân biệt đúng hay sai, nghệ thuật hay phi nghệ thuật; cứ có người đặt tiền vào tay là viết, viết xong lại xem thường ngay cái vừa viết rời tay! Song cái tật lớn hơn cái tài, ngày mai lại làm tiếp tục cái việc hôm qua đã làm! Những điều vô lý sẽ nối tiếp nhau một cách hợp lý! Như một bài toán cuộc đời, kết quả luôn đúng từ tổng các điều sai. Còn những cây bút tự cho mình đã ở bậc cao, gặp ai cũng phê bình, không cần biết hay hay dở, hợp gu hay không hợp gu, viết cẩu thả viết lấy được, suồng sã trong thẩm định và đánh giá; không phải mà nghiễm nhiên người ta so sánh việc cầm bút với tình yêu, coi đó là hành động nguyên bản, mỗi lần diễn ra là một trường hợp độc đáo. Bởi trong xã hội, sự nhốn nháo có chiều tăng lên, người ta càng quý mến những ai giữ được tuyết sạch giá trong của ngòi bút. Hiện vẫn xảy ra bàn cãi không phải trên các hội nghị mà râm ran giữa xã hội xem “nên lấy người làm gốc hay lấy thư pháp làm gốc”. Rồi, sau đại trà, người ta đã “lấy” cái khác, trong đó chẳng còn cả người lẫn thư pháp nữa. Cho nên, trong tình hình thư pháp Việt có vẻ phát triển như hiện nay, đã dễ dàng cho chúng ta thấy hành trình của nó: “Bãi cát dài, bãi cát dài. Đi một bước như lùi một bước” (Sa hành đoản ca), khi cố đi đến sự định hình thư pháp Việt. Than ôi! Người viết học sơ hiểu cạn, nhiều năm cố gắng tìm tòi học hỏi, có lẽ không đủ cay đắng như Thúy Kiều, cũng chẳng phải hy sinh cả thân mình cho chuyện vu oan của thằng bán tơ phải bán mình chuộc cha. Nhưng, điều ray rứt cái chung còn nan giải hơn sự riêng của Thúy Kiều, đó là giữ được một chữ Tâm trong thư pháp. Suy nghĩ sao làm cho đúng, để khi phong trào thư pháp có phát triển theo chiều hướng nào đi nữa thì điểm đích vẫn là mục tiêu Văn hóa. Văn hóa hành xử, văn hóa tư tưởng, văn hóa nghệ thuật, văn hóa với nhân loại…
Chính những điều này mới làm nên diện mạo cho xã hội. Và theo quan điểm của người viết, đó mới thật sự là điều mà cái tâm của mỗi người mang đến cho thư pháp, cho xã hội, chứ không phải là những phong trào, những lời tung hô lẫn nhau, những cuộc phô diễn lệch chiều để làm mất chính mình và cái mất lớn lao hơn là mất đi cái nhìn thanh cao của xã hội vào bộ môn nghệ thuật này. Chung lại, viết thư pháp bạn có nét chữ đẹp rồng bay phượng múa bạn sẽ chinh phục được lòng người. Còn việc “giữ được lòng người” hay không chính là cái Tâm trong thư pháp. Đó mới là điều quan trọng.
Vũ Thụy Đăng Lan