Tỳ-kheo là người xuất gia, đã phấn đấu cầu thọ giới pháp (cụ túc giới) để tu học, đáng ra nơi họ không có gì ác vì được an trú trong giới, được giới chở che, bảo hộ. Thế nhưng, giữ giới và chuyển hóa nghiệp lực vốn không phải là chuyện dễ làm. Thời gian đầu nhờ sơ tâm hùng mạnh nên tinh tấn cao độ, nhờ đó mà phiền não tạm thời bị nhiếp phục. Về sau do dễ duôi, ỷ lại, tự mãn nên phiền não có cơ hội trỗi dậy. Cái gọi là ác Tỳ-kheo bắt đầu hình thành từ đây.
“Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Có sự việc gọi là thành tựu chín pháp. Thế nào là chín? Là sắc mặt cứng cỏi, không hạ mình, tâm tham, bỏn sẻn, tâm niệm không xả ly, chóng quên, lười suy nghĩ, che giấu việc dâm, không biết đền ơn. Đó là chín pháp. Này Tỳ-kheo! Đó gọi là thành tựu chín pháp này.
Tỳ-kheo ác cũng thành tựu chín pháp. Thế nào là chín? Ở đây, Tỳ-kheo ác sắc mặt cứng cỏi, không hạ mình, tâm tham, bỏn sẻn, chóng quên, lười suy nghĩ, che giấu việc dâm, không biết đền ơn, tâm niệm không xả ly. Đó là chín pháp.
Thế nào là Tỳ-kheo ác sắc mặt cứng cỏi? Ở đây, Tỳ-kheo ác tìm cầu điều không nên tìm cầu, trái với hạnh Sa-môn. Tỳ-kheo như thế gọi là sắc mặt cứng cỏi.
Thế nào là Tỳ-kheo ác chịu nhục? Ở đây, Tỳ-kheo ác ở nơi các Tỳ-kheo hiền thiện mà tự khen mình, hủy báng người khác. Tỳ-kheo như thế gọi là chịu nhục.
Thế nào là Tỳ-kheo sanh tâm tham? Ở đây, Tỳ-kheo ác, thấy tài vật của người khác đều sanh tâm tham. Đây gọi là tham.
Thế nào là Tỳ-kheo bỏn sẻn? Ở đây, Tỳ-kheo ác, được y bát không cho người dùng chung, thường tự cất giấu. Như thế gọi là bỏn sẻn.
Thế nào là Tỳ-kheo hay quên? Ở đây, Tỳ-kheo ác, phần lớn thường để rơi mất những lời diệu thiện, cũng chẳng suy nghĩ phương tiện tu, bàn luận chuyện quốc gia binh chiến. Như thế gọi là Tỳ-kheo ác thành tựu sự chóng quên này.
Thế nào là Tỳ-kheo ác lười suy nghĩ? Ở đây, Tỳ-kheo ác đối với pháp cần suy nghĩ mà không suy nghĩ. Như thế gọi là Tỳ-kheo ác ít suy nghĩ.
Thế nào gọi là Tỳ-kheo ác che giấu việc dâm? Ở đây, Tỳ-kheo ác có việc dâm mà che giấu, không nói với người: ‘Nay tôi hành dâm chớ để người biết’. Như thế gọi là Tỳ-kheo ác che giấu việc dâm.
Thế nào là Tỳ-kheo ác không biết đền ơn? Ở đây, Tỳ-kheo ác không có tâm cung kính, không hầu hạ thầy và các bậc đáng tôn trọng. Như thế gọi là Tỳ-kheo ác không biết đền ơn.
Nếu Tỳ-kheo ác thành tựu chín pháp này, ghi nhớ không bỏ, thì trọn không thành đạo quả. Cho nên, này các Tỳ-kheo, đối với các pháp ác nhớ nên xả bỏ. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe xong lời Phật dạy, liền vui vẻ vâng làm.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm 44.
Chín nơi cư trú của chúng sanh [trích], VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.205)
Trong kinh văn, có một pháp bị các nhà kết tập bỏ sót không giải thích, đó là “tâm niệm không xả ly”. Tuy nhiên, không khó để nhận ra những đặc điểm của vị Tỳ-kheo ác, gồm 9 pháp “sắc mặt cứng cỏi, không hạ mình, tâm tham, bỏn sẻn, chóng quên, lười suy nghĩ, che giấu việc dâm, không biết đền ơn, tâm niệm không xả ly”.
Theo như giải thích của Đức Phật, người tu mà có những biểu hiện như: 1- Tìm cầu điều không nên tìm cầu, trái với hạnh Sa-môn; 2- Tự khen mình, hủy báng người khác; 3- Thấy tài vật của người khác đều sanh tâm tham; 4- Được y bát không cho người dùng chung, thường tự cất giấu; 5- Rơi mất những lời diệu thiện, cũng chẳng suy nghĩ phương tiện tu, bàn luận chuyện quốc gia binh chiến; 6- Với pháp cần suy nghĩ mà không suy nghĩ; 7- Có việc dâm mà che giấu; 8- Không có tâm cung kính, không hầu hạ thầy và các bậc đáng tôn trọng; 9- Tâm niệm không xả ly; thì đó là Tỳ-kheo ác.
Cứ vào những điều này, quả thật, ranh giới của thiện ác nơi người tu cũng rất mong manh. Khoác cà-sa lên người, dẫu có lâu ngày cũng chưa nói lên được điều gì nếu còn vương pháp ác. Khi đang là phàm tăng, chúng ta có thể xem 9 pháp này là thước đo tư cách của người tu. Nếu ai không vương 9 pháp này đích thị là bậc chân tu, cao tăng, thạc đức. Ngược lại là ác tăng, ác Tỳ-kheo, cần phải nỗ lực tu học và chuyển hóa nhiều hơn, bởi tu hành mà không vượt qua 9 pháp này thì không thể sáng đạo. Thế Tôn đã nhắc nhở “thành tựu chín pháp này, ghi nhớ không bỏ, thì trọn không thành đạo quả”.