Câu đối nhà Phật được sử dụng trong việc để xây dựng chùa, tịnh xá, thiền viện, tịnh thất, niệm Phật đường, rất nhiều nơi như: cổng tam quan, chánh điện, tháp tổ.v.v… . Phật học đời sống “tuyển tập 62 câu đối Phật giáo” gửi đến quý bạn đọc tham khảo.
01. *Sắc tướng vốn không, nương cảnh huyễn độ người mê muội;
*Tử sanh nào có, mượn thuyên từ với kẻ trầm luân.
02. *Một chút giận, hai chút tham, lận đận cả đời ri cũng khổ;
*Trăm điều lành, ngàn điều nhịn, thong dong tấc dạ rứa mà vui.
03. *Tánh lặng đất trời chung một cõi;
*Tâm không trăng gió trải muôn phương.
04. *Biển ái lấp bằng, Tịnh độ đi về đâu mấy chốc;
*Sông mê tát cạn, Niết bàn an trú vốn không xa.
05. *Ngộ thấu nguồn chơn, tâm danh lợi trôi theo dòng nước;
*Rõ cùng lý đạo, niệm thị phi bay lẫn chòm mây.
06. *Cảnh Phật trang nghiêm, mõ sớm gõ tan hồn mộng ảo;
*Cửa thiền thanh tịnh, chuông chùa ngân vọng tiếng từ bi.
07. *Lặng nhìn trăng sáng nước trong, đèn Bát nhã chiếu tan niềm tục;
*Lắng nghe kinh vàng kệ ngọc, tiếng Từ bi gõ thức tình thương.
08. *Rũ sạch lòng trần, giọt nước cam lồ, rưới khắp phiền não chín cõi;
*Mở tròn tuệ giác, soi đèn Bát nhã, hiển bày tướng hảo ba thân.
09. *Cá biết về nguồn thăm nghĩa cội;
*Chim dù xa tổ nhớ ơn cây.
10. *Tấc cỏ ngâm ngùi, hương khói tỏ lòng con cháu thảo;
*Ba xuân thương nhớ, lớn khôn nhờ đức tổ tông hiền.
11. *Mắt trí rạng ngời, đèn vô tận chiếu tan niềm tục;
*Tay từ tế độ, nước dương chi gội sạch lòng trần.
12. *Cỏi Ta bà mê muội trầm luân, trống chuyển âm vang lời giác ngộ;
*Cửa Tam quan tình thương rộng mở, chuông khua đồng vọng tiếng từ bi.
13. *Hiu hiu gió thổi đầu cành, không thấy,thấy không tùy mắt ngắm;
*Vằng vặc trăng soi đáy nước, thật hư hư thật hỏi lòng xem.
14. *Tiếng chuông Linh mụ vọng về đâu, sáu nẻo luân hồi chúng sanh mong tế độ;
*Cội cả tòng lâm đà ngã xuống, hai hàng mê ngộ đệ tử xót bơ vơ.
15. *Sạch phiền não, hết tham sân, cửa Phật đây rồi thôi tìm kiếm;
*Phá si mê, trừ nghiệp chướng, đường trần đó mặc hết ruỗi rong.
16. *Cửa Không trống dậy mấy hồi, đọc kinh chú xua tan mộng ảo;
*Cỏi Phật chuông đưa vài chập, niệm nam mô xóa sạch não phiền.
17. *Lặng nhìn mây trắng núi xanh, hương giải thoát xông lừng cây cỏ;
*Vẳng tiếng thông reo chim hót, gió từ bi thổi mát đất trời.
18. *Mây núi chập chùng, trăng Bát nhã lồng soi vũ trụ;
*Cỏ hoa tươi tốt, gió Từ bi thổi mát sinh linh.
19. *Đây chùa đây Phật, đây mõ sớm chuông chiều, nhắn nhủ khách trần về nẻo giác;
*Này trăng này gió, này kinh vàng kệ ngọc, khuyên răn người tục bỏ đường mê.
20. *Phật đạo chẳng nghĩ bàn, thả chiếc thuyền Từ chờ kẻ giác;
*Pháp môn không kể xiết, khêu đèn Bát nhã đón người mê.
21. *Vô minh tham ái buộc ràng, đối cảnh sinh tình thêm lụy tục;
*Bát nhã từ bi giải thoát, xem kinh mở trí rạng lòng chơn.
22. *Đạo tổ sáng hoài cây cỏ đượm nhuần mưa pháp;
*Chùa xưa mới mãi cháu con tiếp nối đèn thiền.
23. *Dứt sạch mê tình, nhắm thẳng một đường lên bờ giác,
*Trừ không nghiệp chướng, giương cao đèn tuệ vượt sông mê.
25. *Không là sắc, sắc là không, chổi buộc lông rùa quét sạch ba ngàn thế giới;
*Phật tức tâm, tâm tức Phật, mõ khua sừng thỏ tỉnh hồn ức triệu sinh linh.
26. *Cỏi Ta bà mê muội trầm luân; trống chuyển âm vang lời Giác ngộ;
*Cửa Tam bảo đạo tình mở rộng, chuông khua đồng vọng tiếng Từ bi.
27. *Mười hiệu Phật, vài câu kinh, đánh thức ngàn năm mê muội;
*Một hồi chuông mấy nhịp mõ, gõ tan bao kiếp trầm luân.
28. *Người nương pháp, pháp nương người, động tịnh theo duyên tiêu nghiệp cũ;
*Phật tức tâm, tâm tức Phật, xưa nay chẳng khác rõ lời chơn.
29-Bên hồ dựng chùa thiền, diễn dạy chơn thừa, một tánh viên minh về gốc cội;
Đầu núi khai hội pháp, nghe truyền chánh pháp, toàn tâm hỷ tín ngộ căn xưa.
30-Mở rộng cửa phương tiện, khéo xiển tần già dựng xây pháp tràng khắp chốn;
Huân ướp đức trang nghiêm, bồi đắp đạo cả, tỏ gốc đức hạnh ở nơi nơi.
31-Người nương pháp, pháp nương người, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ;
Phật tức tâm, tâm tức Phât, xưa nay chẳng khác hợp chơn tông.
32-Sau biển rộng, trước sông xanh, trăng nước chập chờn cơn sóng vỗ;
Sáng kinh vàng, chiều kệ ngọc, trống chuông vang vọng tiếng xa gần.
33-Thả bè báu, dong thuyền từ, vớt khách lợi danh trên biển ái;
Diễn kinh vàng, tuyên kệ diệu, gọi người mơ mộng giữa sông mê.
34-Chùa Phật trang nghiêm, ảnh nhật linh linh như cảnh sắc;
Đài sen vắng lặng, vần mây hiển hiện tường quang.
35-Trăm ngàn ức kim thân, Chánh pháp tuyên dương, nhiếp hóa chúng sanh về nẻo giác;
Ba mươi hai bảo tướng, ánh từ chiếu khắp, dìu dắt muôn loài thoát đường mê.
36-Gặp cảnh thâm u cỏ nội hoa đồng quên năm tháng;
Ở non khoán hoạt, chuông chiều mõ sớm rõ sắc không.
37-Bỏ hết Tham , Sân, Si, chính tại đây là Tịnh độ;
Tu tròn Giới, Định, Tuệ, ngay phàm tâm là thánh tâm.
38-Gặp cảnh u thâm, mõ sớm chuông chiều tiêu lũy kiếp;
Ở nơi khoáng đạt, hoa đồng cỏ nội ngộ ba sinh.
39-Phật chẳng lìa tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ;
Chí nơi đạo cả, đến đi vô ngại ngộ cơ thiền.
40-Tâm trí tuệ mở bày, vạn kiếp hôn mê liền dứt sạch;
Niệm từ bi dấy khởi, nhiều đời nghiệp chướng tự tiêu vong
41-Đất báu trang nghiêm, sắc hương không khác;
Cửa Phật quảng đại, ra vào tùy duyên.
42-Tham thiền phải lọt qua cửa Tổ, văn tự đâu cần, khi niêm hoa mĩm miệng;
Ngộ đạo cần dứt tuyệt đường tâm, ngữ ngôn nào kể, lúc tay khẩy ba lần.
43-Rộng thi nguyện lớn, chất ngọc giáng cung vua, chín rồng phun nước tắm;
Nhằm độ quần sanh, thân vàng tu núi tuyết, trăm chim ngậm hoa chầu.
44-Muôn pháp nhất như, là tục là chân, qui đường giác;
Đức tròn pháp giới, bàn không bàn có chuyển tâm mê.
45. * An tâm tự tại, vui niềm đạo
* Đối cảnh tùy duyên, thỏa ý thiền.
46. * Xả bỏ phàm tình, quy nẻo giác
* Tu theo thánh giáo, chuyển tâm mê.
47. * Vạn pháp vốn không, bởi do duyên mà có
* Chơn tâm hằng hữu, đâu vì học mới nên.
48.*Xả tục, xả chơn, tùy duyên dị ngộ
*Trước danh ,trước tướng, vọng chấp nan thông.
Dịch nghĩa:
*Bỏ tục, bỏ chơn, tùy duyên dễ ngộ
*Vướng danh, vướng tướng, vọng chấp khó thông.
49.*Học đạo tiến tu, ngày ngày vơi đi niềm tục
*Rèn tâm nuôi đức, kiếp kiếp thoát khỏi bến mê.
50.*Ơn cha sâu nặng, dẫu muôn kiếp báo đền, không trả hết
* Nghiã mẹ cao dày, dù nghìn đời cung phụng, chẳng đáp xong.
51.*Lửa tam giới thường bốc cháy, khiến chúng sanh khổ não đêm ngày
*Nước tịnh bình mãi rưới mát, để muôn loài an lạc tháng năm.
52.*Cửa Phật rộng mở, đưa chúng sanh đi vào nẻo thiện
*Pháp môn phương tiện, dắt hữu tình ra khỏi đường mê.
53.*Chuông an lạc, ngày đêm ngân vọng, mong hàm linh thoát ly cảnh khổ
*Mõ công phu, sớm tối nhịp đều, muôn vạn vật vơi bớt niềm đau.
54.*Quan Âm từ bi, luôn cứu giúp chúng sanh, lúc hoạn nạn phát sinh
*Di Lặc hỷ xả, hằng trợ duyên hữu tình, khi phiền não dấy khởi.
55. *Vạn pháp duyên sanh, có không đều là huyển
*Nhất tâm vô tướng, động tịnh thảy đều chơn.
56.*A-Nan nghe nhiều nhớ lâu, nên chi kinh tạng Phật thuyết, Ngài trùng tuyên không hề sai sót
*Ca -Diếp khổ hạnh đầu đà, bởi thế chánh pháp Phật trao, Ngài lãnh đạo luôn đi đúng đường.
57.* Chúng sanh đau khổ trầm luân, bởi do ba nghiệp không thanh tịnh
* Bồ tát an lành tự tại, chính vì bốn đức được viên dung.
58.*Chư Phật trong ba đời, do vì thương xót chúng sanh mà luôn thị hiện
*Chúng sanh nơi sáu nẻo, chính nhờ nương theo thánh giáo nên bớt trầm luân.
59.*Sáng ra hãy nhớ tụng chú Lăng Nghiêm, để răn mình đừng sa vào biển khổ
* Chiều về đừng quên trì kinh Di Đà, nhằm nhắc người nên cầu tiến vãng sanh .
60.* Sông mê,cuốn trôi chúng sanh trong ba cõi
* Biển ái, nhấn chìm vạn loại khắp mười phương.
61.* Tát cạn sông mê, dắt chúng sanh đi vào tịnh độ
*Lấp bằng biển ái, dẫn bốn loài ra khỏi trầm luân.
62* Đất khách sớm hôm, lòng dạ dặt dìu hoài vọng, nhớ đến quê cha
*Quê người đêm ngày, tâm trí ngậm ngùi ngóng trông, thương về đất tổ.
Hạo Nhiên sưu tầm
Chúng tôi chuyên sưu tầm nhiều câu đối thiền môn, câu đối Phật pháp, câu đối Phật giáo, câu đối chùa chiền, đối liễn Phật giáo, đối liễn hoành phi.