Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Sanh, thế danh Ngô Văn Từ, sinh năm 1936 (năm Bính Tý) tại ấp Phú Thuận, xã Long Khánh, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Thân phụ là cụ ông Ngô Văn Hoành và thân mẫu là cụ bà Lương Thị Tự. Hòa thượng là con cả trong gia đình có 5 anh em hai trai, ba gái.
TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN SANH
– Ủy Viên Thường Trực Hội Đồng Trị Sự GHPGVN;
– Ủy Viên Thường Trực Ban Tăng sự TW GHPGVN;
– Ủy Viên Thường Trực Ban Giáo Dục Tăng Ni TWGHPGVN;
– Chứng Minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Sóc Trăng;
– Nguyên Phó Trưởng Ban Thường Trực Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Sóc Trăng;
– Hiệu Trưởng Trường Trung cấp Phật học tỉnh Sóc Trăng;
– Phó Chủ tịch UBMTTQVN tỉnh Sóc Trăng;
– Trụ trì Chùa Khánh Sơn, Phường 6, Tp. Sóc Trăng.
Xem thêm: >>Cáo phó: Đại lão HT Thích Thiện Sanh viên tịch ở tuổi 82
THÂN THẾ
Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Sanh, thế danh Ngô Văn Từ, sinh năm 1936 (năm Bính Tý) tại ấp Phú Thuận, xã Long Khánh, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Thân phụ là cụ ông Ngô Văn Hoành và thân mẫu là cụ bà Lương Thị Tự. Hòa thượng là con cả trong gia đình có 5 anh em hai trai, ba gái.
THỜI GIAN XUẤT GIA TU HỌC
Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình thuần nông mộ Nho tin Phật, nhờ sẵn có nhân lành từ nhiều đời trước cũng như sớm nhận thức cõi đời là hư ảo, miên man, song song đó, đất nước đang trong cơn nguy biến dưới ách xâm lăng của các thế lực ngoại bang. Thủa nhỏ Hòa Thượng được song thân cho theo học chữ Nho với các thầy đồ trong làng. Năm 1949, Hòa thượng được thân phụ gửi đến xuất gia gieo duyên, vừa học văn hóa vừa học đạo tại chùa Phật Ân, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
Năm 1954, vâng lệnh song thân Người trở lại quê nhà để kế tự gia nghiệp, thực hiện trọn vẹn ý nghĩa “báo hiếu song đường” theo tư tưởng Nho gia. Thời gian này, Hòa Thượng tận mắt chứng kiến những trận càng quét, bom rơi đạn lạc, người người ly tán, làng xóm hoang tàn dưới sự áp bức cai trị của thực dân Pháp và tiếp biến đế quốc Mỹ.
“Nợ nước, thù nhà sao nỡ tránh
Tình đời, ý đạo khó phân trần”.
Từ đó, Hòa thượng bắt đầu có ý thức về tinh thần yêu nước, dân tộc, giải phóng quê hương và đã tham gia vào du kích địa phương bảo vệ xóm làng, tổ nghiệp. Tuy nhiên, với sự bố ráp càn quét bắt lính, bắt người của chế độ Ngô Đình Diệm, lần lượt các anh em du kích ở địa phương dần mất thông tin liên lạc, kết nối…. Ngày 15.04 năm 1964, Hòa Thượng đã được người Bác ruột – Hòa Thượng Thích Pháp Độ đưa về tái xuất gia tu học hợp pháp tại chùa Khánh Sơn, thị xã Ba Xuyên, tỉnh Hậu Giang, nay là Tp. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
Sau khi xuất gia, Hòa thượng đã nỗ lực tinh cần tu học cũng như có dự hướng cho hành động yêu nước đã thực hiện khi có đủ điều kiện. Năm 1966, Hòa thượng được Ân sư cho đặc cách thọ Tam đàn Cụ túc giới tại chùa Linh Sơn, Gia Định – Sài Gòn.
III. THỜI GIAN HÀNH ĐẠO
Năm 1968, Hòa Thượng tham gia công tác cơ sở Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam của tỉnh Ba Xuyên cũ do ông Nguyễn Văn Nghiêm nguyên Phó Chủ tịch UBMTQVN tỉnh Sóc Trăng lãnh đạo trực tiếp.
Với vai trò được phân công hoạt động hợp pháp trong tôn giáo, Hòa Thượng đã tích cực vận động chư Tăng trong chùa tham gia cách mạng như ông Trần Văn Thạch (Bảy Huệ An), chú Nguyễn Văn Kháng…
Do tổ chức phân công thành lập Ban Liên Tôn cứu đói tỉnh Ba Xuyên, Hòa Thượng hỗ trợ từ thiện nhân đạo tiếp tế cho vùng kháng chiến, vùng ấp chiến lược, vùng giải phóng. Tuyên truyền vận động bà con Phật tử xuống đường biểu tình chống bắt quân dịch, cũng như hoạt động che giấu nuôi chứa cách mạng tại chùa Khánh Sơn trong đó Hòa Thượng Thích Thiện Quảng – Phó Ban Kinh Tài của Mặt Trận giải phóng Miền Nam Việt Nam tỉnh Ba Xuyên và Hòa Thượng Thích Thiện Mỹ (Trần Bá Mỹ).
Năm 1971, Hòa Thượng được thầy bổn sư giao toàn quyền trụ trì ngôi chùa Khánh Sơn cho đến ngày nay.
Năm 1972, được phân công làm Thư ký Phật giáo Cổ Sơn môn tỉnh Ba Xuyên.
Sau ngày 30/4/1975, chư Tăng tại bổn tự lần lượt trở về cuộc sống thế nhân, có người tham gia công tác chính quyền. Nhưng với Hòa thượng thì càng cần mẫn kiên định con đường xuất gia và hành đạo, tự tu tự độ, phát triển kinh tế tự túc ruộng vườn để chăm lo nhang khói cho cửa chùa trong thời kỳ đất nước còn khó khăn, cũng như áp dụng tinh thần nhập thế của Phật Hoàng Trần Nhân Tông, tích cực chủ động tham gia về mặt xã hội được tập thể tín nhiệm phân công làm cán bộ Tôn giáo vận và sau đó giữ chức vụ Phó chủ tịch Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam thị xã Sóc Trăng, tỉnh Hậu Giang đến khi chia tách tỉnh năm 1992.
Từ năm 1981 đến năm 1992 làm Đại biểu Hội Đồng Nhân Dân Tx. Sóc Trăng các khóa IV, V, VI.
Năm 1981, được tín nhiệm suy cử làm thành viên trong đoàn đại biểu Phật giáo tỉnh Hậu Giang đi dự Đại hội đại Biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ I tại thủ Đô Hà Nội. Tại Đại hội này đã thống nhất các tổ chức hệ phái Phật giáo và thành lập nên Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Từ năm 1982 – 1992, được tín nhiệm suy cử vào chức vụ Chánh Thư ký Ban Trị sự Giáo Hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Hậu Giang.
Năm 1992, sau khi tách tỉnh Hậu Giang và Sóc Trăng. Hòa Thượng được tập thể Giáo hội tín nhiệm suy cử chức vụ Phó Trưởng Ban Thường Trực Ban Trị GHPGVN tỉnh Sóc Trăng giữ trọng trách lãnh đạo Phật giáo Bắc Tông trải qua năm nhiệm kỳ.
Năm 1993, Hòa thượng đứng ra vận động Tăng Ni, Phật tử thành lập trường Cơ bản Phật học và Ngài được tín nhiệm giữ cương vị Hiệu trưởng đến nay.
1994, với tâm nguyện truyền đăng tục diệm, tiếp dẫn hậu lai. Hòa Thượng cùng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh đã tổ chức thành công Đại giới đàn “Bửu Lai” và ngài được thỉnh cử làm Yết Ma A Xà Lê sư.
Cũng với hạnh nguyện ấy, Hòa Thượng được chư tôn đức các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Tp. Cần Thơ lần lượt thỉnh cử đảm trách cương vị Hòa thượng Đàn Đầu, Yết Ma, Giáo Thọ, và Tôn chứng Tăng già để đem giới đức, hạnh nguyện từ bi ……
Năm 2002, tại Đại hội Đại Biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ V đã suy cử Hòa Thượng vào Ủy Viên HĐTS.
Năm 2009, kết hợp với Đài Truyền hình tỉnh Sóc Trăng đứng ra vận động Phật tử thành lập chương trình “Nhịp cầu Nhân ái”, cứu giúp trên hàng ngàn mãnh đời khó khăn bệnh tật.
Năm 2012, tại Đại hội Đại Biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VII đã suy cử Hòa Thượng vào Ủy Viên Thường trực Hội Đồng Trị sự GHPGVN.
Từ các năm 2012-2017, Hòa thượng luôn luôn là bóng cây đại thụ che mát cho Tăng Ni, Phật tử là các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu. Đặc biệt, thường xuyên tham dự và chứng minh các Đại hội, lễ hội cũng như sinh hoạt Phật sự tại các tỉnh miền Tây, góp phần xây dựng, phát triển Giáo hội ngày càng trang nghiêm, vững mạnh trong lòng dân tộc.
Năm 2015, được bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch không chuyên trách UBMTTQVN tỉnh nhiệm kỳ (2015 -2019). Trước đó, từ 1992 đến 2015, Hòa Thượng là thành viên của UBMTTQVN tỉnh Sóc Trăng.
Năm 2017, nhận thấy sức khỏe không còn linh hoạt để đáp ứng với các điều kiện phát triển của Phật giáo trong giai đoạn mới, nên ngài đã đề cử Thượng tọa Thích Minh Hạnh đảm nhiệm chức vụ Phó Trưởng Ban Thường Trực, và ngài được tập thể suy tôn lên ngôi vị chứng minh của Ban Trị sự.
Đối với công đức cao dày của Hòa thượng đã hiến dâng cho Đạo pháp và Dân tộc, Hòa thượng đã được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tặng thưởng các Huân chương cao quý:
– Huân chương Đại Đoàn Kết Toàn Dân Tộc
– Huy chương Vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân.
– Huy Chương Kháng Chiến Hạng Nhất
– Bằng Khen của Ban Tuyên Giáo Trung ương
– Bằng Khen của Thủ tướng Chính Phủ
– Nhiều Bằng Tuyên Dương Công đức của HĐTS và Bằng khen của UBND, Ủy Ban Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Sóc Trăng, Ủy Ban MTTQVN Tp. Sóc Trăng từ khi tham gia công tác xã hội và Giáo hội.
IV. THỜI GIAN VIÊN TỊCH:
Như cánh chim Bằng giữa trời xanh, như Sư tượng nơi núi rừng sâu thẳm, như cá lớn giữa biển khơi, như dạo mộng cõi ta bà tùy duyên hóa độ, cộng trú nhân sinh, Hòa Thượng đã lấy câu “nhập thế đồng trần” trên lộ trình phụng sự đạo pháp, phục vụ chúng sinh, trang nghiêm Giáo hội, nhất là Phật giáo Sóc Trăng ngày càng phát triển bền vững sau 35 năm thành lập Giáo hội và 26 năm tái thành lập tỉnh Sóc Trăng. Ngài là biểu tượng tinh thần từ bi cần mẫn, nhu hòa với tất cả Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài tỉnh thương yêu, kính quý. Những tưởng ngài còn trụ thế lâu dài, làm bóng đại thọ cho hàng hậu thế; nào ngờ trong những tháng cuối năm 2016, thân thể ngài lâm bệnh, mặc dù đã được các bác sĩ Đông – Tây y tận tình chữa trị, nhưng căn bệnh vẫn không thuyên giảm.
Tuy bị căn bệnh hoành hành, nhưng Hòa thượng vẫn minh mẫn, thông tuệ mọi việc, dặn dò chúng Tăng, hàng đệ tử tục gia và Chư tôn đức lãnh đạo Phật giáo Sóc Trăng hãy hòa hợp đoàn kết giữa Phật giáo Nam, Bắc tông đã được thiết lập bền vững bấy lâu phát huy truyền thống phụng đạo yêu nước của Phật giáo góp phần làm tốt đạo đẹp đời và quê hương Sóc Trăng ngày càng giàu đẹp.
Thế rồi, sức khỏe Hòa thượng ngày càng giảm dần như củi hết lửa tắt, như thuyền từ rời bến đổ. Hòa thượng đã xả báo an tường và thâu thần thị tịch vào lúc 17..giờ …30. ngày…07… tháng ….11. năm 2017 (nhằm ngày 19….tháng 9…. âm lịch năm Đinh Dậu) tại chùa Khánh Sơn, Phường 6, Tp. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Trụ thế 82 năm, hạ lạp trải qua 53 năm an cư kiết hạ.
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Tam Thế, húy Thượng Tâm Hạ Từ, tự Nhựt Từ, hiệu Thiện Sanh, Ngô công Hòa thượng Giác linh thùy từ chiếu giám.