Post: : Admin

Hòa thượng Thích Từ Mãn pháp húy Trừng Chiếu, pháp tự Giác Hạnh, pháp hiệu Hưng Phước, đạo hiệu Từ Mãn. Ngài họ Hoàng, huý Ngọc Chân, sinh ngày 20 tháng 4 năm 1918 (nhằm năm Mậu Ngọ), tại làng Ðại Lộc, xã Ðiền Lộc, huyện Phong Ðiền, tỉnh Thừa Thiên Huế.



Chân dung cố trưởng lão Hòa thượng Thích Từ Mãn (1918-2007)

Chân dung cố trưởng lão Hòa thượng Thích Từ Mãn (1918-2007)


- Thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN.
- Ủy viên Hội đồng Trị sự Trung ương GHPGVN.
- Trưởng ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Lâm Đồng.
- Hiệu trưởng Trường Trung cấp Phật học Lâm Đồng.
- Trụ trì chùa Linh Sơn Thành phố Đà Lạt.
- Viện chủ Tịnh viện Từ Phong. 


Thân phụ là cụ ông Hoàng Ngọc Cử và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Thừa. Ngài là con thứ 5 trong một gia đình gồm 6 anh em 4 trai 2 gái.


Gia tộc họ Hoàng vốn là một gia đình nhiều đời tin Phật, đặc biệt đã hơn bốn thế hệ luôn có người xuất gia tu hành, trở thành những Tỷ kheo trong đoàn thể Tăng già Phật giáo. Tiếp nối truyền thống cao đẹp ấy, vào năm 12 tuổi (1930), khi túc duyên hội đủ, ngài được phép của song thân xuất gia tu học với Hòa thượng Tâm Khoan, đương thời là Tăng Cang chùa Sắc tứ Báo Quốc, kinh đô Huế.

Năm 16 tuổi (1934), ngài được bổn sư cho thọ giới Sa di tại cùa Báo Quốc với pháp danh Trừng Chiếu.

Năm 18 tuổi (1936), sau khi bổn sư viên tịch, ngài cầu y chỉ với Hòa thượng Tịnh Khiết, chùa Tường Vân, kinh đô Huế.

Năm 21 tuổi (1939), ngài theo học Trường Trung đẳng Phật học tại chùa Tây Thiên-Huế do sơn môn tổ chức. Trong thời gian này, cũng có một trường khác tại chùa Báo Quốc do phong trào chấn hưng Phật giáo thành lập.

Năm 23 tuổi (1941), ngài được phép thọ Tỷ kheo giới tại Ðại giới đàn chùa Thuyền Tôn do chính Hòa thượng y chỉ của ngài làm Ðường đầu Hòa thượng.

Vào năm 1945, tình hình chính trị trong nước hết sức phức tạp, xã hội loạn ly, các trường Phật học ở Huế đều tạm nghỉ, ngài trở về tu học tại chùa Kim Tiên. Sau đó, vì hoàn cảnh kinh tế quá khó khăn, ngài cùng với chư tăng vân tập về tổ đình Thuyền Tôn-Huế, để lao động sản xuất, thực hiện phương châm “bất tác bất thực”.


Năm 1947, lúc 29 tuổi, ngài được Tổng hội Phật giáo Trung Việt bổ nhiệm làm trú trì chùa Linh Sơn-Ðà Lạt, tỉnh Lâm Viên (Lâm Đồng) và Hòa thượng Thích Thiện Minh làm giảng sư, đồng thời là Ðại diện Tổng hội lãnh đạo các tỉnh miền Nam Trung Việt và 3 tỉnh Cao nguyên.

Năm 1950, Hội Phật học Trung phần đã tổ chức khóa hạ an cư tập trung tại chùa Linh Phong-Ðà Lạt, do Hòa thượng Thích Bích Nguyên sáng lập. Khóa hạ gồm các Hòa thượng Thích Quang Nhuận, Thích Minh Cảnh, Thích Bích Nguyên, Thích Từ Mãn, Thích Thiện Minh, Thích Hoa Sơn ở chùa Giác Hoàng, Ðơn Dương (Lâm Đồng).


Sau mùa an cư, với sự đề nghị của chư tôn đức, Hòa thượng Bích Nguyên đã hỷ cúng chùa Linh Phong để làm cơ sở cho Ni bộ tại tỉnh Tuyên Ðức, và ngôi Tam bảo này chính thức trở thành trụ sở của Ni bộ Bắc tông vào năm 1952. Trong khoảng thời gian này, ngài thường lên xuống Nha Trang để giảng dạy Trường Sơ đẳng Phật học tại chùa Tỉnh hội Long Sơn. Ngôi trường này là tiền thân của Phật học viện Nha Trang.


Năm 1952, ngài cung thỉnh Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Giáo hội Tăng già Trung phần vào Ðà Lạt để chứng minh lễ đúc tượng Phật và Ðại hồng chung chùa Linh Sơn.

Cũng vào năm 1952, thể theo lời mời của Thái hậu Từ Cung, mẹ vua Bảo Ðại, ngài được Hội Phật học Trung phần bổ nhiệm làm trú trì chùa Sắc tứ Khải Ðoan, thành phố Buôn Ma Thuột. Tại đây, ngài đã lãnh đạo Tăng ni Phật tử chống lại chính sách kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô Ðình Diệm năm 1963.


Trong thời gian làm Phật sự tại Buôn Ma Thuột, ngài đã đặt đá xây dựng các chùa Hoa Nghiêm, huyện CưMgar, Dăklăk (1958); chùa An Lạc, Buôn Hồ, Dăklăk; chùa Nam Thiên, xã Hòa Thuận, Dăklăk (1958).

Năm 1964, sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thành lập, ngài được Viện Hóa Ðạo tái bổ nhiệm làm trú trì chùa Linh Sơn-Ðà Lạt, kiêm Trưởng Ban Quản trị Trường Bồ Ðề-Ðà Lạt.

Năm 1966, ngài đã cùng Ban Ðại diện Tỉnh hội xây dựng Giảng đường chùa Linh Sơn-Ðà Lạt, nay là Trường Trung cấp Phật học Lâm Ðồng, nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục của tỉnh nhà, đồng thời làm hội trường cho Viện Hóa Đạo tổ chức họp Ðại hội Phật giáo toàn quốc.

Trong khoảng thời gian từ 1964-1974, ngài đã cùng với Giáo hội địa phương thành lập và xây dựng một hệ thống các Chi hội, Khuôn hội, Ký nhi viện Nhị Trưng, Kiều Ðàm, Thái Phiên và Chẩn y viện Phật giáo.


Năm 1973, ngài được cung thỉnh làm Phó Chủ đàn Giới đàn Phước Huệ do Viện Hóa Ðạo tổ chức tại chùa Tỉnh hội Long Sơn, Nha Trang. Giới đàn này do Hòa thượng Thích Trí Thủ là Chánh Chủ đàn và Hòa thượng Thích Phúc Hộ là Ðàn đầu Hòa thượng.

Từ năm 1974 đến 1980, ngài được cung cử làm Chánh Ðại diện tỉnh Tuyên Ðức, kiêm trú trì chùa Linh Sơn-Ðà Lạt.

Năm 1980, ngài được Viện Hóa Ðạo mời làm Phó Ban Kiến đàn Ðại giới đàn Thiện Hòa tại tổ đình Ấn Quang, Thành phố Hồ Chí Minh.


Năm 1981, sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập tại Hà Nội, ngài được suy cử vào Ủy viên Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ I.

Từ năm 1982 đến 2007, tại các Ðại hội Ðại biểu Phật giáo tỉnh Lâm Ðồng lần thứ I đến lần thứ VI, ngài liên tiếp được Giáo hội, Tăng ni và Phật tử tỉnh suy cử làm Trưởng ban Trị sự Phật giáo Lâm Ðồng suốt sáu nhiệm kỳ.


Năm 1991, Trường Cơ bản Phật học, nay là Trường Trung cấp Phật học Lâm Ðồng được thành lập; ngài được cung thỉnh làm Hiệu trưởng.

Năm 1993, để hỗ trợ cho việc xiển dương thiền học, đặc biệt là Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam, ngài đã vận động chính quyền tỉnh Lâm Ðồng và thành phố Ðà Lạt cấp đất tại hồ Tuyền Lâm, sau đó chuyển giao cho Hòa thượng Thích Thanh Từ xây dựng nên Thiền viện Trúc Lâm ngày nay.

Năm 1994, ngài được Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Lâm Ðồng cung thỉnh làm Ðàn đầu Hòa thượng cho Ðại giới đàn Nhơn Thứ, tổ chức tại chùa Linh Sơn-Ðà Lạt.


Năm 1997, ngài đã được Ðại hội Ðại biểu Phật giáo Toàn quốc nhiệm kỳ IV (1997-2002) suy tôn làm thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Năm 1998, ngài được Giáo hội Tỉnh cung thỉnh làm Ðàn đầu Hòa thượng cho Giới đàn Trí Thủ, tổ chức tại chùa Linh Sơn-Ðà Lạt.


Năm 2002, ngài chứng minh và đặt đá xây dựng Thích Ca Phật Ðài, Niêm Hoa Vi Tiếu, tạc theo truyền thuyết của Thiền tông, cao 24 mét, tại Thiền viện Vạn Hạnh, phường 8, Ðà Lạt.

Năm 2003, lại một lần nữa Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Lâm Ðồng cung thỉnh ngài làm Ðàn đầu Hòa thượng cho Ðại giới đàn Diệu Hoằng tại chùa Linh Sơn, Ðà Lạt.

Ðể tán thán công đức của ngài, Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã trao bằng Tuyên dương Công đức. Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Lâm Ðồng cũng đã nhiều lần tặng bằng khen cho Hòa thượng để ghi nhận sự đóng góp to lớn của ngài cho đạo pháp và dân tộc.


Với sự vô tình của thời gian, như một chiếc xe cũ đã đến hồi mục nát, thân tứ đại của ngài mỗi ngày mỗi suy yếu. Nhưng sức người không thể cưỡng lại quy luật vô thường, thân ngũ uẩn của ngài đã đến lúc phải trả hoàn về cát bụi. Vào tháng 11 năm 2007, Hòa thượng lâm trọng bệnh. Môn đồ, Phật tử đã thỉnh ngài vào bệnh viện Lâm Ðồng và bệnh viện Chợ Rẫy-Thành phố Hồ Chí Minh để chữa trị, nhưng do tuổi già sức yếu, Hòa thượng an nhiên thị tịch vào lúc 01 giờ 15 phút sáng, ngày 30 tháng 11 năm 2007 (nhằm ngày 21 tháng 10 năm Ðinh Hợi); hưởng thọ 90 tuổi đời, 67 hạ lạp.


NAM MÔ TỰ LÂM TẾ CHÍNH TÔN, TỨ THẬP NHỊ THẾ LINH SƠN TỰ TRÚ TRÌ, LÂM ÐỒNG TRỊ SỰ TRƯỞNG BAN, HUÝ THƯỢNG TRỪNG HẠ CHIẾU, TỰ GIÁC HẠNH, HIỆU HƯNG PHƯỚC, ÐẠO HIỆU TỪ MÃN HÒA THƯỢNG GIÁC LINH THUỲ TỪ CHỨNG GIÁM.