Phẩm hạnh của một vị chân tu qua kinh Kinh Cha con gặp nhau (Phụ Tử Cộng Hội Kinh) là một trong 16 bài kinh thuộc Nghĩa Túc Kinh kinh thứ 15, nằm trong Đại Tạng Đại Chánh Tân Tu 198 (Purābheda Sutta- Sutta Nipāta, Attakavagga 10) do ngài Chi Khiêm dịch.
Thầy và trò. Ảnh: Minh Hiếu
Hiện kinh này có cả bản Hán văn và bản tiếng Pali. Bản văn cổ chữ Hán xuất hiện khoảng thế kỷ thứ ba sau Công nguyên, về nội dung đại thể cả hai bản này đều giống như nhau.
Nghĩa Túc Kinh , chữ Nghĩa là nghĩa lý, Túc là sự đầy đủ, Nghĩa Túc tức là nghĩa lý đầy đủ, trọn vẹn. Kinh Nghĩa Túc (Arthapada Sutra) là một trong những kinh xưa nhất của Phật giáo Nguyên thủy, các nhà khoa học đều công nhận kinh này có sớm nhất và lối văn cổ nhất so với tất cả các kinh khác, nên kinh Nghĩa Túc là kinh tiêu biểu, mang trong mình tinh thần của Phật giáo Nguyên thủy. Kinh Nghĩa Túc cũng là một minh chứng cho chúng ta thấy rằng Phật giáo Nguyên thủy xuất hiện vào những năm đầu sau khi Phật thành đạo.
Kinh Cha Con Gặp Nhau, là bài kinh được Phật giảng lúc Phật về thành Ca-tỳ-la-vệ, thăm quê hương lần đầu, hơn một năm sau khi thành đạo, cả dòng họ Sakya tổ chức tiếp đón Phật rất long trọng; đích thân vua Tịnh Phạn cũng đi ra ngoài thành đón tiếp Đức Phật. Dòng họ Thích Ca và dân chúng trong thành đều rất hoan hỷ đến nghe Phật thuyết pháp. Trong pháp hội đó, sau khi mọi người nhận lãnh năm giới, có người đặt câu hỏi:
“Kính thưa Phật, thế nào là một vị Mâu-ni, thế nào là một vị thầy tu tĩnh lặng, một người có giới đức hoàn toàn? Chúng con muốn biết. Xin Ngài giải nghĩa giùm cho, thế nào là vị Mâu-ni?”.
“Đã tiếp nhận đầy đủ giới pháp, chúng con phải nhận diện như thế nào và phải nói như thế nào cho đúng về bậc toàn thiện có chánh kiến, có đầy đủ giới pháp, bậc được sinh ra như một vị anh hùng trên thế gian, bậc đó đã vượt thoát mọi ràng buộc khổ nạn? Xin Đức Thế Tôn chỉ dạy cho chúng con”.
Câu hỏi làm duyên khởi cho kinh này là làm thế nào để mọi người có thể nhận diện được một con người giác ngộ, tịch tĩnh, đức hạnh đầy đủ trong số những người đang khổ đau, trầm luân trên đời. Câu hỏi đầy trí tuệ này không những làm lợi ích cho thính chúng trong pháp hội đó, mà còn là kim chỉ nam cho hàng Phật tử sau này trong việc tìm đúng các bậc thiện tri thức có đầy đủ đức hạnh và trí tuệ làm chỗ nương tựa, học hỏi, và tu hành đúng theo chính pháp.
Đức Phật từ bi chỉ rõ ra rằng:
1. “Trước hết đó là một người đã buông bỏ hết tất cả những hận thù trong quá khứ, một người không còn mơ tưởng, vướng mắc gì vào tương lai. Và cả chính trong hiện tại người đó cũng không vướng vào hư danh và sự tôn kính của người đời. Người đó là một bậc Mâu-ni, một người toàn thiện”.
Đó là một con người rất bình thường như tất cả những người khác, nhưng đã buông bỏ được tất cả những giận hờn, hận thù, lo lắng, phiền muộn, ân oán trong quá khứ, không giữ lại trong tâm mình. Người ấy cũng không bị dính mắc, chấp trước hay mơ mộng hão huyền vào những mong cầu ở tương lai. Và người ấy cũng không bị vướng mắc vào những gì đang diễn ra trong giây phút hiện tại.
Bởi vì đã thấu rõ, quá khứ qua rồi, tương lai chưa đến, hiện tại cũng không trụ; cho nên người đó không còn mơ tưởng viển vông, xa vời mà đạt được hạnh phúc và an lạc ngay trong giây phút hiện tại. Vị ấy càng nhìn thấu danh lợi, địa vị vốn không thật có, nên không vướng mắc vào hư danh; tâm của vị ấy không bị dao động bởi sự tôn kính hay bất kính của người đời. Người như vậy chính là bậc trọn lành, tịch tĩnh, đức hạnh đầy đủ, hoàn toàn ung dung và tự tại.
2. “Không tham đắm vào tương lai, không ưu sầu về quá khứ. Người ấy trên bước đường mình đi đã buông bỏ mọi tham cầu, mọi tà kiến, không giữ lại một tư kiến nào”.
Do buông bỏ được tất cả những hận thù, phiền muộn nên không còn ưu sầu về quá khứ, không mong mỏi, mơ tưởng hão huyền trong tương lai nên không tham đắm vào tương lai. Bậc Mâu-ni ấy là người đã buông bỏ không còn vướng mắc vào tiền tài danh vọng, xa lìa những nhận thức sai lầm, không còn chấp trước vào bất kỳ một ý kiến, nhận định thiên lệch nào của bản thân.
Ai cũng biết rất nhiều những tranh luận, chống đối, đấu tranh, phiền não phát sinh từ sự chấp trước vào ý kiến, nhận định của bản thân, vì nghĩ rằng cái thấy của mình mới là chân lý, còn cái thấy của người khác là sai lầm.
Trong Tám con đường chân chính mà Đức Phật dạy để đưa mọi người đến nơi an vui hạnh phúc thì chính kiến, tức là cái thấy biết chân chính, đứng đầu, muốn có chính kiến trước hết phải buông bỏ tất cả các kiến, kể cả tư kiến.
3. “Đã buông bỏ mọi sợ hãi, đã trở nên vững chãi, nuôi dưỡng được chánh tín, diệt trừ được nghi nan, không tật đố, lòng hoan hỉ với những gì đang có, yêu nếp sống thảnh thơi”.
Vì không ưu sầu về quá khứ, không vướng mắc vào tương lai, lại buông bỏ được mọi sự tham cầu, không còn chấp vào Cái Ta, nên vị ấy đã nhìn thấu và vượt qua mọi nỗi sợ hãi, lòng tin chân chính được củng cố vững chãi, tâm không còn dao động trước ngoại cảnh. Như vậy, những nghi nan trong lòng của vị ấy tự nhiên tiêu trừ, xa lìa lòng ganh tỵ, an trụ trong hiện tại nhiệm mầu, tâm luôn an vui với cuộc sống hiện tại. Nhất là nếp sống của vị ấy vô cùng đơn giản, thảnh thơi và tự tại.
4. “Có khả năng tiết chế, không tham vọng, có nhiều tuệ giác, không ganh ghét ai, không nói xấu ai, không trau chuốt bên ngoài, không nói lưỡi hai chiều, người ấy buông bỏ mọi hý luận và nghi ngờ”.
Vị ấy có khả năng làm chủ chính mình, làm chủ cuộc đời mình, không bị lòng tham dục bên trong hay những lạc thú bên ngoài kéo đi. Đi đứng nằm ngồi, vị ấy luôn tỉnh giác, luôn tự tiết chế, điều độ trong ăn uống ngủ nghỉ, không bị nô lệ cho đam mê, tập khí hay thói quen. Rất nhiều người thường tự hào về những thành tựu trong sự nghiệp tiền tài danh vọng, địa vị, nhưng suốt đời họ sống nô lệ cho lòng tham dục, si mê của mình mà họ không biết. Thật đáng thương thay! Tu tập để ngày càng làm chủ bản thân mình nhiều hơn là một việc rất quan trọng và cần thiết.
Với trí tuệ tịch tĩnh, vị Mâu-ni ấy là bậc đã nhìn rõ thật tướng các pháp nên đã hoàn toàn xa lìa được lòng ganh ghét, đố kị; xa lìa sự nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác, nói lời trau chuốt giả tạo; buông bỏ mọi hý luận không có lợi ích thật sự cho sự giác ngộ giải thoát; tâm không còn hoài nghi, ngờ vực về con đường tu hành. Vị ấy biết rõ, nguyên nhân của khổ đau là tham vọng quá nhiều, nên xa lìa được dục vọng,
5. “Tâm ý giải thoát, không đắm trước, lìa tư kiến, không thêu dệt hư vọng, bước đi an tường, người ấy có khả năng giải tỏa được mọi tranh chấp, không bị dục kéo đi, và đoạn trừ được mọi dục tưởng”.
Tâm ý của vị ấy không còn bị trói buộc vào bất kỳ thứ gì, được tự do một cách trọn vẹn. Những sợi dây phiền não không còn nơi để phát huy tác dụng được nữa. Không còn vướng mắc, chấp trước vào những cái thấy của riêng mình. Miệng không còn nói những lời thêu dệt, hư vọng. Bước chân của vị ấy chậm rãi, thảnh thơi, vững chãi, an lành không còn vội vàng, hấp tấp. Tâm vị ấy không còn mọi ý tưởng tham dục, ham muốn. Vị ấy luôn tỉnh táo và nhẫn nại, có khả năng hóa giải mọi sự cãi cọ, tranh chấp, hơn thua bằng trí tuệ từ bi.
Vị ấy nhận rõ rằng, mọi dục tưởng là do tri giác sai lầm đưa tới ham muốn. Nếu không có dục tưởng thì sẽ không có ham muốn. Do chúng ta tham muốn tìm cầu nhiều thứ, nào là tiền tài, danh vọng, quyền hành, nữ sắc, vì cứ nghĩ chúng sẽ đem lại cho mình an lạc và hạnh phúc, cho nên chúng ta khổ đau nhiều. Còn vị ấy biết rõ, một khi bị vướng vào những thứ đó rồi mình sẽ mất hết hạnh phúc, thảnh thơi, an lạc mà chỉ còn lại toàn là đau khổ.
6. “Không mưu toan để đạt tới một cái gì mình muốn, cũng không lo lắng khi mình không có cái kia, người ấy không oán giận, không bị vị ngọt của ái dục sai sử”.
Lòng vị ấy đã trong sạch và sáng suốt, nên không còn mưu toan hay tìm thủ đoạn để thỏa mãn sự ham muốn bản thân, ngay cả việc thành tựu được một mức độ nào đó trong tu học, cho nên không buồn phiền, lo lắng hay oán giận khi không có được hay mất mát thứ gì. Nhất là vị ấy đã đoạn trừ được sự luyến ái, không còn bị nô lệ cho ái dục.
Đây là một điều rất khó làm được, vì sở dĩ chúng ta có mặt trong cuộc đời này là do ái dục; chúng ta trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, chịu đủ mọi đau khổ triền miên cũng là do ái dục. Ái dục chính là nguồn gốc của sinh tử luân hồi, là nguyên nhân của khổ đau, nên xa lìa được ái dục tức là an vui giải thoát.
7. “Không tự cao, thấy được tự tánh bình đẳng và vô ngã, không có mặc cảm thua người hay bằng người; biết quán chiếu, biết đình chỉ tâm ý, biết cái gì là thiện cái gì là ác và buông bỏ được những vọng cầu về tương lai”.
Vị ấy quán chiếu sâu và thấy rõ tất cả mọi chúng sinh đều có thật tính bình đẳng, tất cả các pháp thật sự bình đẳng, đạt đến cái thấy vô ngã, nên xa lìa được hai trạng thái tự cao và tự ti, không còn mặc cảm hay tự mãn, không còn ý tranh luận hơn, thua, bằng với người khác. Vị ấy luôn kiểm soát tâm ý không để buông lung theo cảnh vật bên ngoài, nhìn thấu, hiểu rành các pháp thiện và pháp ác, cũng không kẹt vào thiện ác, suy nghĩ không còn dấu vết và sai lầm.
Người chưa đạt đến cái nhìn vô ngã, chưa thấu rõ thật tính bình đẳng của các pháp, thì chưa thể xem là bậc Đạo sư được.
8. “Biết quán chiếu và thấy được tự tính các pháp, không còn bị kẹt vào một pháp nào, không cần nương tựa vào một pháp nào, cũng không kẹt vào ý niệm có và ý niệm không”.
Vị ấy thường tĩnh tâm dùng trí tuệ quán chiếu, thấu rõ tự tính của các pháp, bản chất của mọi sự vật hiện tượng, nên không còn bị trói buộc hay vướng mắc vào bất kỳ pháp nào, cũng không còn kẹt vào hai đầu đối đãi có vàkhông, do đó không có gì là không vượt thoát được.
9. “Ái đã diệt, tâm đã tĩnh, người ấy đã vượt qua biển sầu khổ tới bến bờ vô ưu, không còn theo đuổi tìm cầu lạc thú trong ba cõi. Đã cởi trói, đã buông bỏ tất cả, không còn có gì để gọi là sở đắc. Ái dĩ diệt: Những tham ái đã bị cắt đứt”.
Tâm vị ấy đã tịch tĩnh, lòng tham ái cũng không còn, những vô minh, những ham muốn, những cám dỗ, lạc thú trong cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc không còn làm cho tâm vị ấy dao động. Vị ấy thực sự là một người tự tại đối với các pháp, tâm đã hoàn toàn buông xả, không còn bị cái gọi là sở đắc trói buộc. Đó là người đã vượt qua biển sầu khổ đến nơi không còn bất kỳ âu lo, phiền muộn gì nữa.
10. “Không cần con trai, không cần ruộng đất, không cần trâu bò, không cần của cải, châu báu ngày càng nhiều, không còn gì hoặc để nắm bắt hoặc để đuổi xua”.
Bậc đại trí tuệ chỉ rõ cho chúng ta thấy được, người mà còn muốn có con trai để nối dõi tông đường, kế thừa sản nghiệp, lòng muốn tích trữ tiền bạc của cải cho nhiều, cái mình không thích thì chán ghét, thứ mình thích thì bo bo gìn giữ, thì chắc chắn người ấy không phải là người thanh tịnh, không phải là chân tu, cũng không phải là đạo sư đích thực.
Một bậc đạo sư đích thực là tâm vị ấy thực sự xa lìa được cả hai thái cực ham muốn và ghét bỏ, tức là không còn ham muốn bất cứ cái gì, cũng không chán ghét bất kỳ cái gì.
11. “Dù bị người ta công kích, phỉ báng, xúc phạm và lên án một cách không có căn cứ, dù có bị các vị Phạm chí và Sa-môn hay cả những người trong giới gọi là tu hành chê bai, người ấy vẫn ngồi yên bất động, vẫn cứ đường mình mình đi”.
Vị ấy là người thấy đạo, đã xác định rõ con đường cần phải đi, tâm ý đã hoàn toàn an tịnh sáng suốt, vượt ra ngoài tác động của những sự khen ngợi hay chê bai, tôn kính hay xúc phạm. Tức là khi bị chê bai, xúc phạm, vị ấy không còn khởi ý nóng giận, khi được khen ngợi, tôn kính, vị ấy không cảm thấy tự mãn, kể cả khi bị vu oan vị ấy cũng không còn muốn bào chữa cho mình.
12. “Không tật đố, không xan tham, dù có được thế gian tôn kính người ấy cũng không bị vướng mắc. Người ấy không tự tôn, không tự ti, không đòi bằng người, cái gì đúng pháp thì làm, phi pháp thì bỏ”.
Những ý niệm tham lam, keo kiệt, ganh ghét hoàn toàn không còn hiện hữu trong tâm vị ấy, ý niệm tự cao tự mãn hay mặc cảm tự ti cũng hoàn toàn được tịnh trừ không còn dấu vết. Tâm vị ấy đã được kiên định, lời nói, việc làm và suy nghĩ không còn mảy may sai lầm.
13. “Thấy được tính Không, đạt tới vô cầu, vô đắc, không còn vui cái vui phàm tục của thế gian, tâm ý đã thực sự dừng lại, vị Mâu-ni vượt thoát thời gian, đạt tới bản môn, đi vào kiếp ngoại”.
Vị ấy đã thấu rõ tính Không, liễu ngộ thực tính của vạn pháp, hiểu hết bản chất của mọi sự vật, hiện tượng, không còn mong cầu bất kỳ cái gì, cũng không thấy mình có bất kỳ sở đắc nào, vượt ra ngoài những ham muốn phàm tục của thế gian.
Tâm vị ấy hoàn toàn tĩnh lặng, sáng suốt và an ổn, ý của vị ấy đã không còn buông lung. Vị ấy thật sự đã vượt ra ngoài mọi sự ràng buộc, giải thoát ra khỏi mọi khổ đau trong sinh tử luân hồi, sạch hết mê lầm và sợ hãi, là con người tịch tĩnh, sáng suốt và chứng ngộ.
Như vậy, con người trí tuệ tịch tĩnh của dòng họ Thích-ca đã đích thân minh chứng cho tất cả mọi người trên thế gian này thấy rõ một điều là: từ một con người bình thường sống trong khổ đau triền miên, bị trói buộc trong vòng sinh tử luân hồi như bao người khác, nhờ vào sự nỗ lực cố gắng tu tâm dưỡng tính đúng phương pháp của tự thân, hoàn toàn có khả năng giải thoát bản thân ra khỏi mọi sự ràng buộc, đạt đến an vui, tự do, tự tại với ý nghĩa toàn vẹn nhất.
Thích Hạnh Tuệ