Ý chí sắt đá trí tuệ cao siêu, lòng bi mẫn vô biên, đức vị tha phục vụ chúng sanh vô tận, sự thoát ly thế tục chưa từng có trong lịch sử, đời sống gương mẫu đến độ thánh thiện, những phương pháp trọn vẹn mà Ngài đã áp dụng để truyền bá giáo pháp và sự thành công vang dội trong công cuộc truyền bá Chánh pháp…
Tất cả những yếu tố đó khiến cho hơn một tỷ người trên thế giới tôn sùng Ngài – Đấng Giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni là đấng giáo chủ siêu việt nhất trong tất cả các vị giáo chủ của nhân loại từ trước đến nay. Và cũng có thể nói rằng tất cả những sự thành công phi phàm của Đức Phật cũng đã phản ảnh được nghị lực vĩ đại và sức nhẫn nại vô biên trong sự nghiệp phục vụ chúng sanh suốt thời gian trụ thế của Ngài.
Nghị lực của Đức Thích Tôn
Hôm nay, nhân kỷ niệm lần thứ 2609 (2016) ngày Đức Phật thành đạo, chúng ta thử điểm qua một vài nét về cuộc đời của Đức Phật suốt tám mươi năm kể từ khi Đản sanh tại vườn thượng uyển Lâm-tỳ-ni ở thành Ca-tỳ-la-vệ cho đến khi nhập Niết-bàn tại rừng cây Ta-la ở thành Câu-thi-na. Qua đó chúng ta thấy được nghị lực vĩ đại và lòng nhẫn nại vô biên của Ngài, đã tác thành sự nghiệp hoằng pháp độ sanh to lớn mà không có một vị giáo chủ nào trên thế gian này làm được.
Thái tử Siddhartha sanh thành trong một gia đình vua chúa thuộc dòng họ lớn Sakya ở giai cấp thượng lưu Sát-đế-lỵ. Bản thân Ngài là một vị hoàng tử thông minh tuấn tú, sức khỏe hơn người, trong tay Ngài có đủ quyền uy và thế lực tột bực, xung quanh Ngài, ngày cũng như đêm kẻ hầu người hạ tấp nập có đến số ngàn.
Tuy sống trong cảnh vương giả vật chất sung mãn trong tay quyền uy và thế lực như thế nhưng Đức Phật không phải là một con người tầm thường như bao nhiêu con người khác; không những đối với những thứ đó Ngài không sanh tâm tham muốn mà xem nó như là mũi tên độc như là ngục tù, như là một nơi ẩn náu của bụi trần cần phải xa lánh chúng càng sớm càng tốt. Thật hy hữu thay!
“Đời sống tại gia rất tù túng chật hẹp là chỗ ẩn náu của bụi trần ô trược. Nhưng đời sống của bậc xuất gia quả thật là cảnh trời mênh mông bát ngát! Người đã quen với nếp sống gia đình ắt thấy khó mà chịu được đời sống đạo hạnh thiêng liêng với tất cả sự hoàn hảo và trong sạch của nó”.
Đến năm 29 tuổi là tuổi trưởng thành sự nghiệp và đẹp nhất trong đời người, thế mà Ngài lại từ bỏ cung thành Ca-tỳ-la-vệ, xa lánh sự giàu sang phú quý của hoàng cung, hy sinh tất cả những sự vinh quang của đế chúa, chối từ tất cả mọi hạnh phúc khao khát của đời người, một mình một bóng an nhiên đi đến Khổ hạnh lâm tầm sư học đạo.
Từ một vị Đông cung thái tử được mọi người trên từ vua chúa quan lại dưới đến hàng dân dã thảy đều yêu kính ngưỡng mộ, sống trong cảnh nhung lụa lầu son gác tía, giữa vợ đẹp con xinh và tương lai sẽ là người kế thừa vương vị, cai trị cả một vùng trù phú Ca-tỳ-la-vệ, Ngài hốt nhiên trở thành một con người không chút quyền uy thế lực, không bà con thân thích, không sở hữu bất cứ vật chất nào, rày đây mai đó sống nhờ vào lòng hảo tâm của mọi người.
“Ta xem vương hầu như bụi qua kẻ hở, xem vàng ngọc quý giá như ngói gạch, xem y phục lụa là như đồ giẻ rách, xem đại thiên thế giới như một hạt cải, xem nước A-nậu như dầu thoa chân…”
Sau khi xuất gia, Ngài đến Khổ hạnh lâm là một quãng thời gian dài nỗ lực tu tập không biết mệt mỏi không tiếc thân mạng. Có lúc Ngài nhịn ăn hàng tuần; có lúc đêm này qua đêm khác Ngài chưa từng chợp mắt; có lúc Ngài ngồi trên gai bố giữa cái nóng hừng hực của sa mạc hay giữa những đêm tối đột ngột thay đổi thời tiết sương lạnh rét buốt kinh hồn; có những lúc giữa đêm khuya thanh vắng tiếng gào thét của ma vương tìm mọi cách hù dọa, hay giữa ban ngày những loài cọp beo rắn rít muỗi mòng tìm mọi cách quấy phá. Sức khổ hạnh của Ngài vượt quá mức tinh cần, đã tàn phá thân thể. Đâu còn hình bóng cao lớn với khuôn mặt sáng rực nước da vàng mịn màng óng ả của vị hoàng tử Tất-đạt-đa ngày xưa, mà giờ đây chỉ còn một vị đạo sĩ với hình trạng thật khiếp sợ. Ngài chỉ còn da bọc xương với xương đầu nhọn lên, da đầu nhăn nhúm, hai bên má hóp sâu, cặp mắt như hai hố thẳm, các đốt xương ngực và xương sườn hiện rõ từng cái, bụng ép lại như đang cố thóp chặt, hai tay hai chân thì như cây sậy. Giữa tình trạng đầy nguy ngập như thế lại còn xảy ra bao cảnh chướng ngại, các loài ma đến khuyên Ngài từ bỏ lối tu trở về sống cảnh xa hoa hưởng thụ. Thế mà Ngài vẫn không chút sờn lòng nhụt chí khẳng định sức kiên trì và lập trường vững chắc trong con đường tu hành của mình cho Ma vương biết.
Gió thổi mãi một ngày kia cũng có thể làm cạn giòng suối, thì máu huyết của người tu khổ hạnh (nhịn ăn, nhịn uống) làm gì khỏi bị khô dần.
Máu cạn thì mật khô thịt cũng hao mòn, thịt Ta càng hao mòn thì tâm Ta càng thanh tịnh, tâm càng thanh tịnh càng an lạc càng sáng suốt thì tâm càng vững chắc. Lúc đó thể xác Ta đau đớn vô cùng thể xác Ta càng đau đớn, tâm hồn càng xa lìa tham ái. Chừng đó Ta biết rõ thế nào là sự trong sạch của một chúng sanh.
Namuci! Đó là quân đội của ngươi, đó là khách luôn luôn lưu trú bên trong hạng người xấu xa quỷ quái. Người hèn nhát ương yếu thì không thắng nổi nhưng ai chế ngự được đạo binh đó thì tìm ra hạnh phúc.
Ta cột trên ngọn cờ của Ta chùm cỏ Munja.
Đời sống trên thế gian này rõ là khốn khổ! Thà Ta chết trên chiến trường còn hơn sống mà thất bại”.
“Giả sử mặt trời mặt trăng có thể rơi xuống đất, núi chúa Tuyết sơn có thể rời khỏi chỗ cũ…, nếu Ta không chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đem thân phàm phu trở về hoàng cung quyết không thể có được việc đó xảy ra. Ta thà nhảy vào đống lửa hừng hực hầm lửa nóng bức, nếu không đạt được địa vị cứu cánh, đem thân phàm phu mà trở về hoàng cung quyết không thể có được việc đó xảy ra” (Kinh Hoa nghiêm).
Sau này khi thành đạo rồi Ngài vẫn không an trụ nơi cảnh giới Niết-bàn thọ dụng pháp lạc. Vì sự nghiệp cứu độ chúng sanh mà suốt quãng thời gian hơn 45 năm còn lại, có khi một mình một bóng có khi cùng với các môn đồ, ngày cũng như đêm lúc khỏe cũng như khi bệnh Ngài thường rong ruổi mọi nơi khắp cả vùng Ấn Độ rộng lớn để gióng lên pháp âm vi diệu.
Bóng cây cao mát không bao giờ thấy Ngài ngủ quá hai đêm, tấm lưng gầy chẳng lúc nào ấm chiếu. Ngài rày đây mai đó lúc thì ở Ma-kiệt-đà, lúc thì ở Tỳ-xá-ly hoặc có lúc ở Ca-tỳ-la-vệ…, suốt cả ngày lẫn đêm không lúc nào Ngài rảnh rỗi. Ngày thì ở bên mé sông hay giữa vệ đường, Ngài khuyên con người cải tà quy chánh bỏ ác làm lành; đêm thì ở dưới gốc cây trong khu rừng vắng, Ngài hướng dẫn chư Thiên thực hành và đi sâu vào các cảnh giới Thiền định. Sự giáo hoá chúng sanh của Ngài thật vô cùng nhiệt tâm. Nghị lực vĩ đại và lòng nhẫn nại vô biên của Ngài trong công cuộc hoằng pháp lợi sanh, không có một vị giáo chủ nào trên thế gian từ cổ chí kim có thể sánh được.
Với trí tuệ bạt ngàn như hư không bao la và lòng từ bi ngập tràn như đại dương vô tận, Đức Phật đã không những đào tạo những con người tri thức trong giai cấp thượng lưu Bà-la-môn như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề… trở thành những vị Thánh nhân kiệt xuất trong hàng môn đồ, mà ngay cả những con người cùng hung cực ác bị xã hội lên án ruồng bỏ như Ương-ma-quật…, những người thuộc giai tầng thấp nhất trong xã hội như người gánh phân Ni-đề… những người buôn hương bán phấn như Am-ba-bà-ly… qua sự giáo hóa tôi luyện của Ngài cũng đã trở thành những vì sao rực sáng trong bầu trời đức hạnh và trí tuệ của nhân loại.
“Mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng rạng tỏ ban đêm, nhung giáp và gươm đao chói sáng nhà vua khi lâm trận, lúc Thiền định hào quang chư Phạm thiên chói sáng, nhưng ngày cũng như đêm Đức Phật rực rỡ sáng lòa trong tòa vinh hạnh”.
Những ngày cuối đời tuy tấm thân tứ đại đã quá mòn mỏi bởi cơn bịnh hành hạ khốc liệt, nhưng vì sự lợi ích của Thuần-đà biết rằng nếu thọ dụng thức ăn của Thuần-đà dâng cúng sẽ càng làm cho thân thể mệt mỏi thêm, Đức Phật vẫn cam lòng thọ nhận. Hoặc ngay trước thời gian Ngài chuẩn bị trút hơi thở sau cùng, vì lòng bi mẫn đối với vị đạo sĩ già Tu-bạt-đà-la, Đức Phật trong hơi thở yếu dần lời nói đứt quãng vẫn thuyết pháp Tứ đế cho vị này nghe.
Giữa đêm vắng không một tiếng động của thành nhỏ hẻo lánh Câu-thi-na, nằm trên chiếc võng cũ treo giữa hai gốc cây Sa-la chỉ còn một vài giây cuối cùng, Ngài sai Tôn giả A-nan đánh kiền chùy nhóm họp Tăng chúng lại. Với cái nhìn thương yêu đầy nét hiền từ, Ngài vỗ về an ủi, khuyến khích sách tấn Tăng chúng chớ có sanh lòng bi não xót thương trước sự ra đi của Ngài mà hãy cố gắng tinh tấn tu hành sớm cầu giải thoát, để tự độ mình và cứu độ vạn loại chúng sanh. Thật cảm động thay!
“Thế nên các Thầy Tỳ-kheo phải ý thức toàn bộ cuộc đời là chuyển biến có kết hợp thì có tan rã đừng lo buồn gì cả. Ngược lại cuộc đời như thế thì các Thầy phải nỗ lực tinh tấn để sớm cầu tự độ, đem ánh sáng trí tuệ diệt trừ hắc ám vô minh. Vũ trụ quả thật mong manh không một thứ chi bền vững. Như Lai diệt độ thì cũng như trừ được cơn bịnh khủng khiếp. Đây là vật tội ác và đáng bỏ, giả hiệu là thân thể mà lại chìm ngập trong biển cả, già, bệnh, sống chết, như thế người có trí tuệ ai lại không hoan hỷ khi trừ bỏ được thân này như trừ bỏ kẻ thù.
Hôm nay, nhân kỷ niệm ngày Phật thành đạo lần thứ 2600 - (2007) lại trở về trên đất nước Việt Nam thân thương, trong ngôi Đại hùng bảo điện trường Trung cấp Phật học Đồng Nai trang nghiêm, trước khói trầm hương nghi ngút chúng con quỳ gối chắp tay trước tôn tượng, chiêm ngưỡng hình bóng oai nghiêm dung nhan rực sáng của Ngài, trong lòng con bỗng lóe lên một ý nghĩ: “Phải chăng tất cả sự nghiệp hoằng pháp độ sanh thành công vang dội của Ngài, để rồi ngày hôm nay hơn một tỷ người trên thế giới tôn sùng Ngài là vị giáo chủ vĩ đại nhất trong tất cả các vị giáo chủ của nhân loại từ cổ chí kim, cũng chỉ là nhằm biểu lộ cho trí tuệ siêu xuất và đức hạnh vô tận, cộng với sức nghị lực vĩ đại và lòng nhẫn nại vô biên của Ngài mà thôi!”
Chúng ta thử nhìn lại cuộc đời của Đức Phật, sanh ra như bao con người khác để rồi trong suốt thời gian dài trụ thế Ngài đã dấn thân trọn vẹn quãng đời tươi đẹp của mình cho sứ mạng phục vụ hạnh phúc nhân loại. Với một sức làm việc kiên trì một nghị lực vĩ đại một lòng nhẫn nại vô biên trước mỗi hoàn cảnh ngang trái, Ngài đã thành công rực rỡ trong sứ mạng phục vụ hạnh phúc và an lạc cho vạn loại chúng sanh. Có thể nói, Ngài là một con người đã sống một cách trọn vẹn kiếp người quá ư đẹp đẽ, đúng như lời của chúng sanh khi tán thán Ngài được ghi lại trong kinh Tăng Nhất A-hàm, và đó cũng chính là lời kết cho bài viết này.
“Một chúng sanh duy nhất một con ngươi phi thường, xuất hiện trong thế gian này vì lợi ích cho phần đông vì hạnh phúc cho phần đông, vì lòng bi mẫn vì sự tốt đẹp vì lợi ích và hạnh phúc của chư thiên và nhân loại”.
TT. Thích Nguyên Liên
Giáo thọ môn Luật học - trường trung cấp Phật học Đồng Nai