Trước khi ăn, người xuất gia cũng như tại gia cần bưng bát cơm ngang trán nghĩ năm điều trước khi thọ dụng.
Năm phép quán trước khi ăn
Có ba pháp số về “Năm Phép Quán”:
A. Năm Phép Quán Ngưng Loạn Tưởng (ngũ đình tâm quán).
Năm phép quán niệm này có công năng chận đứng loạn tưởng, dập tắt phiền não, làm cho tâm ý được định tĩnh, sáng suốt, là bước đầu của tiến trình tu định.
1. Quán niệm thân thể và vạn vật đều là nhiễm ô, không trong sạch (bất tịnh quán), do đó mà chận đứng được tâm tham dục.
2. Quán niệm để thấy mọi người và mọi loài đang phải sống khổ đau vì vô minh, do đó phát khởi tình thương rộng lớn (từ bi quán), và nhờ vậy mà dứt bỏ được tâm sân hận, oán thù.
3. Quán niệm về đạo lí duyên khởi trong quá trình sinh diệt của vạn hữu (nhân duyên quán) để thấy rõ chân tướng của thực tại, nhờ đó mà dứt bỏ được tâm ngu si, tà kiến, cố chấp.
4. Quán niệm về 6 nguyên tố(lục đại: rắn chắc, lưu nhuận, viêm nhiệt, chuyển động, trống rỗng, tâm thức) tạo thành bản thân, hoặc về 18 khu vực (thập bát giới) củathân (6 căn), cảnh (6 trần), và nhận thức (6 thức). Sự phân tích này giúp ta thấy được sự giả hợp của thân tâm mà ta thường cho đó là cái “ta”, nhằm đánh tan tâm chấp ngã (ngã kiến). Danh từ Phật học Hán Việt gọi phép quán niệm này là “giới phân biệt quán”. (“Giới” nghĩa là khu vực.)
5. Quán niệm hơi thở bằng cách đếm hơi thở vô, hơi thở ra (sổ tức quán), nhằm “cột” tâm lại, không để giây phút nào bị tán loạn, xao lãng.
Có chỗ lại cho rằng, vì phép quán niệm thứ tư (giới phân biệt quán) có cùng tính chất với phép quán niệm thứ ba (nhân duyên quán), nên gom lại thành một – chỉ có nhân duyên quán; và phép quán niệm thứ tư được thay bằng Phật quán, tức là quán niệm về thân tướng trang nghiêm, thanh tịnh và các đức tính cao thượng của đức Phật, từ đó mà bao nhiêu phiền não, nghiệp chướng đều bị tiêu trừ.
B. Năm Phép Quán Trước Khi Ăn (thực thời ngũ quán).
Ăn cơm có quán niệm là ăn cơm trong chánh niệm, ăn cơm trong tỉnh thức, ăn cơm trong an lạc. Quán niệm như sau:
1. Nhìn bát cơm, hãy quán niệm vềnhững nguồn lực đã làm cho có bát cơm, như: bác nông phu, con trâu, cái cày, hạt giống, đất, nước, ánh sáng, nhà máy xay lúa, phương tiện chuyên chở v.v… Quán niệm như vậy để thấy rằng, bát cơm đến với ta không phải là chuyện giản dị; không phải chỉ cần bỏ ra đồng bạc là có được bát cơm. Sự hiện hữu của bát cơm trước mặt ta đồng thời là sự hiện hữu của cả vũ trụ, trong đó có sự hiện hữu của ta. Bát cơm nuôi sống ta, đồng thời bảo cho ta biết là ta đang mang một nguồn ơn nghĩa vô tận mà ta có nhiệm vụ phải đáp đền.
Khi đã thực tập thuần thục, ta có thể quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Thức ăn này là tặng phẩm của đất trời và công phu lao tác.”
2. Nhìn bát cơm, hãy quán niệm vềbản thân ta, xem có tư cách xứng đáng để ăn bát cơm ấy không. Ta nên lặp lại câu nói ở trên: “không phải chỉ cần bỏ ra đồng bạc là có được bát cơm.” Có những người giàu có tiền muôn bạc triệu nhưng không có tư cách xứng đáng để ăn bát cơm, hoặc có lúc không có được bát cơm để ăn. Trong thiền môn có câu châm ngôn : “Bất tác bất thực” (không làm thì không ăn). Ý nghĩa của câu châm ngôn này là chính ta phải bỏ công sức ra để góp phần vào việc làm cho có bát cơm, để ta không phải hổ thẹn khi bưng bát cơm lên đưa vào miệng. Bưng bát cơm lên mà không thấy hổ thẹn tức là ta được ăn cơm trong an lạc. Như trên vừa nói, sự hiện hữu của bát cơm trước mặt ta cũng đồng thời là sự hiện hữu của cả vũ trụ, vì vậy, không cứ gì phải trực tiếp cày cấy, xay lúa giã gạo mới là đóng góp công sức vào bát cơm, mà ta có thể cống hiến bất cứ khả năng nào mà ta có, cùng với thì giờ và tâm lực cho cuộc đời, là ta đã góp phần vào việc làm cho có bát cơm rồi vậy.
Khi đã thực tập thuần thục, ta có thể quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Xin nguyện sống xứng đáng để thọ nhận thức ăn này.”
3. Nhìn bát cơm, dù ta đã quán niệm và tự biết mình có tư cách xứng đáng để ăn bát cơm, nhưng không vì thế mà cho rằng “ta có quyền ăn cho thỏa thích!” Ta nên tiếp tục quán niệm để biết xót thương những người đang chịu đói khát ở khắp nơi trên thế giới. Quán niệm như thế ta sẽ bỏ được tính tham lam và phát triển tình thương trong ta, để một ngày nào đó, có thể lắm, ta sẽ làm được một cái gì để góp phần vào việc thay đổi tình trạng bất công của cuộc sống hiện nay.
Khi đã thực tập thuần thục, ta có thể quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Xin nhớ ngăn ngừa những tật xấu, nhất là tật tham lam.”
4. Ngồi trước bát cơm mà lòng tham đã bị dập tắt thì hành giả sẽ thấy được rằng, bát cơm quả thật là phương thuốc mầu nhiệm để nuôi dưỡng và trị bệnh gầy yếu cho cơ thể. Khi đã thấy rõ như vậy, hành giả sẽ biết quí trọng thức ăn, và càng cẩn trọng trong việc chọn lựa thức ăn – nghĩa là chỉ ăn những thức ăn nào có tính chất nuôi dưỡng mà không gây tật bệnh cho cơ thể. Cẩn trọng như thế là vì hành giả luôn luôn có ý thức rằng, nếu hành giả khỏe mạnh, an vui thì những người liên hệ chung quanh cũng khỏe mạnh, an vui; nếu hành giả bệnh tật, đau khổ thì họ cũng bị ảnh hưởng y như vậy.
Khi đã thực tập thuần thục, ta có thể quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh.”
5. Nếu sự đam mê ăn uống không làm cho hành giả tu học và hành đạo được thì đói khát cũng không thể nào làm cho hành giả tu học và hành đạo được. Cho nên, khi nhìn bát cơm để trước mặt, hành giả hãy quán niệm để thấy đó là nguồn năng mầu nhiệm để nuôi sống và bảo vệ thân mạng. Thân mạng có được bảo vệ thì đạo nghiệp mới viên thành. Không riêng gì cho hành giả, mà bát cơm cũng còn là nguồn năng mầu nhiệm để nuôi sống và bảo vệ thân mạng của bao nhiêu triệu người đang bị đói khổ trên thế giới, cũng như của muôn loài chúng sinh khác. Bệnh đói là một chứng bệnh vô cùng thê thảm trong đời sống nhân loại và mọi loài chúng sinh! Nếu ngồi trước bát cơm mà thấy được điều đó thì hành giả sẽ phát khởi tình thương rộng lớn và tâm nguyện vì đời phụng sự, đem khả năng và tâm lực giúp người cứu vật, cho đến khi thành tựu đạo nghiệp.
Khi đã thực tập thuần thục, ta có thể quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Vì muốn thành tựu đạo nghiệp nên thọ nhận thức ăn này.”
C. Năm Phép Quán của Bồ Tát Quán Thế Âm (Quán Âm ngũ quán).
Sở dĩ được gọi là “năm phép quán của Bồ Tát Quán Thế Âm” là vì năm phép quán niệm này được ghi trong kinhPháp Hoa (phẩm “Phổ Môn”), khi đức Phật tán dương hạnh nguyện độ sinh của đức Bồ Tát Quán Thế Âm.
1. Chân quán: Quán chiếu về tínhkhông của vạn hữu để trừ khử mọi kiến chấp và tư tưởng sai lạc, từ đó thấy rõ thật tướng bình đẳng của vạn hữu.
2. Thanh tịnh quán: Quán chiếu về tính giả của vạn hữu để diệt trừ tận gốc rễ mọi phiền não, dù là những loại phiền não vi tế nằm trong sâu thẳm tận cùng củatàng thức (a-lại-da), nhờ đó mà tâm thức hoàn toàn thanh tịnh.
3. Trí tuệ quán: Khi mọi gốc rễ thâm sâu của vô minh đã bị bật tung hết rồi, khi mà mọi chủng tử ô nhiễm đã chuyển hóa sang trạng thái thanh tịnh hết rồi, thì tuệ giác bừng sáng, chiếu rọi mười phương, diệu dụng tự tại vô ngại.
4. Bi quán: Do tâm nguyện độ sinh, Bồ-tát dùng ba phép quán ở trên quán chiếu mọi khổ não của chúng sinh để giúp họ diệt khổ.
5. Từ quán: Do tâm nguyện độ sinh, Bồ-tát dùng ba phép quán ở trên quán chiếu mọi khổ não của chúng sinh để đem niềm an vui đến cho họ.
Nếu đem so sánh, ta thấy ba phép quán đầu của năm phép quán này có phần phù hợp với ba phép quán của tông Thiên Thai(1):
– chân quán – – – – – – – – – – – – – – – – không quán
– thanh tịnh quán – – – – – – – – – – – – giả quán
– trí tuệ quán – – – – – – – – – – – – – – – trung quán
Nhưng khác nhau ở chỗ, ba phép quán của tông Thiên Thai chỉ đề cập đến thành quả giác ngộ mà không đề cập đến hạnh nguyện độ sinh như ở năm phép quán của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Mặt khác, nếu so sánh với bốn trí tuệ của bậc giác ngộ(2), ta có thể coi chân quán là bình đẳng tánh trí, thanh tịnh quán là đại viên cảnh trí, trí tuệ quán làdiệu quan sát trí, và bi quán cùng với từ quán là thành sở tác trí.
Chỉnh Ba