Lời ban biên tập – Nhà báo Malcolm Browne là một trong những nhân chứng người nước ngoài có mặt tại sự kiện Bồ-tát Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn vào ngày 11-6-1963, ông đã chụp liên tục khoảng 10 cuộn phim ghi lại hình ảnh HT.Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân mà trong đó có một bức ảnh được xem là biểu tượng đã mang lại cho ông giải thưởng ảnh báo chí quốc tế năm 1963 và đoạt giải Pulitzer vào năm 1964.
Trước khi từ giã cõi đời vào ngày 27-8-2012 ở tuổi 81 tại Hoa Kỳ, ông đã có cuộc trò chuyện với Patrick Witty, biên tập viên hình ảnh của Tạp chí Time tại nhà riêng của ông ở Vermont, Hoa Kỳ về sự kiện lịch sử mà ông là nhân chứng.
Chúng tôi trân trọng gởi đến quý độc giả nội dung của buổi trò chuyện giữa hai người qua bản dịch Việt của Tường Anh và Tịnh Thủy hiệu đính.
Malcolm Browne:
Nhân dịp lễ kỷ niệm lần thứ 50 ngày Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vào năm 1963, LightBox trình bày cuộc phỏng vấn với Malcolm Browne, nhiếp ảnh gia của Associated Press, người đã chụp được bức ảnh mang tính biểu tượng vào thời điểm đó.
Nhiếp ảnh gia Malcolm Browne, được biết đến qua bức ảnh gây chấn động và mang tính biểu tượng về một nhà sư tự thiêu tại Sài Gòn, đã qua đời vào ngày 27/8/2012 hưởng thọ 81 tuổi. Ông Browne đã được trao giải thưởng Pulitzer về Tường thuật Quốc tế và Ảnh Báo chí Quốc tế Năm 1963 của World Press. Vào năm 2011, ông Browne đã có buổi trò chuyện với Patrick Witty, chủ bút hình ảnh của Tạp chí Time tại nhà riêng của ông ở bang Vermont, Hoa Kỳ.
Patrick Witty: Điều gì đã xảy ra ở Việt Nam lúc bấy giờ để dẫn đến việc anh chụp được bức ảnh nổi tiếng về việc tự thiêu của Ngài Quảng Đức?
Malcolm Browne: Cho đến thời điểm xảy ra sự kiện thì tôi đã ở Việt Nam được đôi ba năm khi tình hình bắt đầu xấu đi tại Miền Trung Việt Nam. Tôi đã quan tâm nhiều hơn đến các nhà Sư Việt Nam hơn trước vì dường như đối với tôi họ có khả năng là những người có tác động mạnh khởi xướng các sự kiện và gây ảnh hưởng trong bất kỳ sự kiện gì xảy ra tiếp theo. Tôi đã có một mối quan hệ thân thiện với khá nhiều vị Sư lãnh đạo phong trào đấu tranh cho nhân quyền và bình đẳng tôn giáo. Lúc đó phong trào đã được định hình.
Vào đầu mùa Xuân năm 1963, các nhà sư bắt đầu nói bóng gió rằng họ sẽ làm một việc đặc biệt gì đó để thể hiện sự phản đối– và điều đó rất có thể sẽ là việc tự sát hay tự thiêu của một trong các nhà sư. Và dù bằng cách nào thì đó là điều mà tôi phải chú ý tới.
Tại thời điểm đó, các nhà sư đã gọi điện cho các phóng viên nước ngoài tại Sài gòn để cảnh báo rằng sắp xảy ra sự việc lớn. Hầu hết các phóng viên đều cảm thấy chán với tin cảnh báo đó và họ đã lờ đi. Riêng tôi, tôi cảm thấy chắc chắn họ (các nhà Sư) sẽ làm một chuyện gì đó, họ không điện thoại để lừa dối, thế nên tôi thực sự là phóng viên phương Tây duy nhất chứng kiến và đưa tin sự kiện trọng đại đó.
PW: Hãy cho tôi biết về buổi sáng hôm đó. Chắc có lẽ anh không mong đợi sự việc gì bi thảm quá nhưng anh có cảm thấy bị lôi cuốn vì cuộc gọi điện thoại đêm hôm trước không?
Malcolm Browne: Tôi đã được gợi ý rằng sẽ có một sự kiện đặc biệt quan trong xảy ra, bởi vì tôi biết chắc các nhà sư này không lừa dối. Họ hoàn toàn nghiêm túc về việc họ sẽ làm một chuyện gì đó khá mãnh liệt. Trong một nền văn minh khác, nó có thể là hình thức một vụ đánh bom hay một sự việc gì tương tự như thế.
Các nhà sư biết rất rõ về một vụ tự thiêu chắc chắn sẽ diễn ra. Cho nên vào thời điểm tôi đến ngôi chùa nơi mà tất cả những điều này đã được tổ chức, mọi thứ đang trong tiến trình – chư Tăng Ni tụng loại kinh rất thông thường ở các buổi tang lễ và các buổi lễ tương tự. Theo sự ra hiệu của người lãnh đạo, tất cả các Tăng Ni bắt đầu bước ra đường và đi bộ hướng về phía khu vực trung tâm Sài Gòn. Khi chúng tôi đến đó, các nhà sư nhanh chóng tạo thành một vòng tròn ngay tại giao lộ của hai con đường chính ở Sài Gòn. Một chiếc xe hơi chạy đến. Hai nhà sư trẻ bước ra khỏi xe. Một nhà sư già, hơi nghiêng một chút vào một trong các nhà sư trẻ, cũng bước ra. Họ tiến đến ngay giữa giao lộ. Hai nhà sư trẻ mang một thùng nhựa chứa xăng. Ngay sau khi vị sư già tự ngồi xuống trong tư thế kiết-già, hai vị sư trẻ kia tưới xăng lên khắp người vị sư già đang ngồi. Rồi nhà sư già ấy mở hộp diêm, lấy ra một que diêm và đốt lên, rồi thả nó vào lòng mình và ngay lập tức ngọn lửa bùng lên, toàn thân của vị sư ngập chìm trong lửa. Tất cả mọi người chứng kiến cảnh tượng ấy đều vô cùng kinh hoàng. Đó là một khoảnh khắc tệ hại như tôi đã mong đợi.
Tôi không biết chính xác lúc nào vị sư ấy qua đời, bởi vì tôi không thể nào nhận biết được qua nét mặt, giọng nói hay bất cứ điều gì của vị ấy. Nhà sư ấy không hề kêu la đau đớn. Khuôn mặt nhà sư ấy dường như vẫn khá bình thản cho đến khi nó bị nám đen do ngọn lửa mà bạn không thể nhận dạng nữa. Cuối cùng các nhà sư nhận định vị sư ấy đã qua đời và họ mang một cái quan tài đến, một quan tài bằng gỗ thô.
PW: Và anh là nhiếp ảnh gia duy nhất ở đó?
MB: Theo như tôi biết có thể nói là đúng như vậy. Sau đó tôi được biết có một vài người Việt Nam cũng đã chụp một vài tấm hình của sự kiện đó, nhưng lúc đấy những tấm hình họ chụp được đã không được công bố, không được gửi ra ngoài qua hệ thống viễn liên hoặc các hình thức tương tự như thế.
PW: Anh đã nghĩ gì khi anh nhìn sự kiện ấy qua ống kính máy ảnh?
MB: Lúc đó tôi chỉ nghĩ sự kiện đó là một chủ thể tự chiếu sáng và cần được phơi bày. Tôi đã dùng một máy ảnh giá rẻ của Nhật Bản, tên là Petri. Tôi rất quen thuộc với nó, nhưng tôi muốn chắc chắn rằng tôi không chỉ điều chỉnh đúng trên máy ảnh từng khoảnh khắc thời gian và tập trung vào sự kiện một cách thích hợp, mà còn phải thay phim một cách thật nhanh để bắt kịp với những gì đang diễn ra. Tôi chụp hết khoảng mười cuộn phim, bởi vì tôi chụp liên tục.
PW: Anh cảm thấy thế nào khi đó?
MB: Điều chủ yếu trong tâm trí tôi lúc ấy là lấy các bức ảnh ra. Tôi thừa nhận rằng đây là một sự kiện quan trọng rất bất thường và tôi phải tức tốc đưa các bức ảnh đó cho cơ quan thông tấn AP tại một trong các chi nhánh của AP càng sớm càng tốt. Và tôi cũng biết đây là một việc rất khó khăn khi làm việc ở Sài Gòn trong thời gian ngắn.
PW: Anh đã làm gì với những cuộn phim ấy?
MB: Tôi phải dùng đến những mưu mẹo để đưa những cuộn phim đó đến điểm truyền tin. Chúng tôi phải gửi các cuộn phim gốc bằng đường hàng không hay bằng cách nào đó. Các cuộn phim không phải trình qua cơ quan kiểm duyệt vào thời điểm đó. Chúng tôi đã sử dụng chim bồ câu để gởi đến tận nơi xa như Manila, Philippines. Và ở Manila người ta có thiết bị truyền tin viễn liên vô tuyến để gửi đi (Hoa Kỳ).
PW: Khi anh nói chim bồ câu, chính xác ý anh muốn nói gì?
MB: Chim bồ câu ở đây là một hành khách trên một chuyến bay thương mại thường xuyên mà mình đã thuyết phục họ để họ mang một gói hàng nhỏ cho mình. Tốc độ là vấn đề quan trọng trong việc này. Vì thế chúng tôi đã tức tốc đem các cuộn phim đến phi trường, và chúng được chuyển đi trên một chuyến bay đến Manila không lâu sau đó.
PW: Khi phim đến nơi, có ai từ hãng thông tấn AP nhắn tin cho anh biết là bức ảnh đã được công bố trên khắp thế giới không?
MB: Không.
PW: Thế Anh không biết à?
MB: Không, chúng tôi không biết, tựa như bắn vào một lỗ đen vậy. Chúng tôi biết rằng phim chúng tôi gửi đi đã đến nơi chỉ sau khi nhận được những lời chúc mừng về việc chúng tôi đã gửi bức ảnh đó. Không phải mọi người đều đăng nó. Tờ New York Times không đăng nó. Họ cảm thấy đó là một bức ảnh quá kinh hãi không mấy phù hợp cho một tờ báo đưa tin vào bữa ăn sáng của độc giả.
PW: Hiện giờ tôi đang xem bức ảnh trên màn hình. Hãy cho tôi biết những gì tôi không thấy – Những gì mà anh đã nghe, đã ngửi thấy khi ấy?
MB: Lúc đó, mùi nhang tràn ngập. Họ đã đốt nhang và tạo ra một mùi rất mạnh, không phải là một mùi đặc biệt dễ chịu, nhưng nó có nghĩa là để bày tỏ lòng thành kính đối với tổ tiên. Tôi phải nói đó là mùi nhang tràn ngập, bên cạnh đó còn có mùi dầu xăng và mùi thịt cháy. Âm thanh lúc đó chính là tiếng gào khóc và đau khổ tiếc thương của các nhà sư vây xung quanh, những người đã biết đến Ngài Quảng Đức trong nhiều năm qua và cảm mến Ngài. Rồi có tiếng la trên loa phóng thanh của những người lính cứu hỏa đang cố tìm cách đưa Ngài ra ngoài, dập tắt ngọn lửa xung quanh Ngài mà không phải thật sự làm Ngài chết hay việc gì đó. Thế nên đó là một cảnh tạp nham lộn xộn.
– Vâng, bức ảnh đã tạo ra sự ảnh hưởng rất mạnh trên khắp thế giới. Đấy có lẽ là câu trích dẫn trung thực từ Nhà Trắng.
PW: Có lần tôi đã đọc những gì Tổng thống Kennedy nói về bức ảnh của anh. Ông ấy nói, “Không có một bức tin ảnh nào trong lịch sử đã tạo ra nhiều cảm xúc trên khắp thế giới như nó”. Có phải như thế không?
MB: Vâng, có thể, đấy có lẽ là câu trích dẫn trung thực từ Nhà Trắng.
PW: Anh coi bức ảnh như là sự thành công tột đỉnh của anh trong ngành báo chí không?
MB: Bức ảnh đã thu hút rất nhiều sự chú ý, tôi nói đúng là như thế. Không nhất thiết phải là một câu chuyện gay go mà tôi đã từng đưa tin nhưng chắc chắn nó là một phần quan trọng trong sự nghiệp của tôi.
Xem hình ảnh:
Diễn tiến cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức ngày 11-6-1963 (ảnh của: Malcolm Browne/ AP)
Tác giả: Patrick Witty@patrickwitty | Deputy Director of Photography at National Geographic Washington, DC. – Time Magazine, The New York Times
Dịch gỉa: Tường Anh Xuan Ha | Legal Translator Mobile phone: 0903033880 – 0903872296 Skype: Lam Ha 64
Hiệu đính: Tịnh Thủy | Biên tập viên Ban biên tập TVHS ([email protected])
Source: http://time.com/3791176/malcolm-browne-the-story-behind-the-burning-monk/
Malcolm Browne:
THE STORY BEHIND THE BURNING MONK
Patrick Witty @patrickwitty Aug. 28, 2012 | Time/LightBox
Malcolm BrowneOn the 50th anniversary of Quang Duc’s self-immolation in 1963, LightBox presents an interview with Malcolm Browne, the Associated Press photographer who captured the now-iconic image.
Photographer Malcolm Browne, known for his shocking and iconic image of a self-immolating monk in Saigon, died on Aug. 27, 2012 at the age of 81. Browne was awarded the Pulitzer Prize for International Reporting as well as the World Press Photo of the Year in 1963. In 2011, Browne spoke with TIME international picture editor Patrick Witty from his home in Vermont.
Patrick Witty: What was happening in Vietnam leading up to the day you took your famous photograph of Quang Duc’s self-immolation?
Malcolm Browne: I had been in Vietnam at that point for a couple of years when things began to look ugly in central Vietnam. I took a much greater interest in the Buddhists of Vietnam than I had before, because it seemed to me they were likely to be movers and shakers in whatever turned up next. I came to be on friendly terms with quite a lot of the monks who were leaders of this movement that was taking shape.
Along about springtime (1963), the monks began to hint that they were going to pull off something spectacular by way of protest–and that would most likely be a disembowelment of one of the monks or an immolation. And either way, it was something we had to pay attention to.
At that point the monks were telephoning the foreign correspondents in Saigon to warn them that something big was going to happen. Most of the correspondents were kind of bored with that threat after a while and tended to ignore it. I felt that they were certainly going to do something, that they were not just bluffing, so it came to be that I was really the only Western correspondent that covered the fatal day.
Malcolm Browne 4PW: Tell me about that morning. You certainly weren’t expecting something so dramatic but you felt drawn because of a call the night before?
MB: I had some hint that it would be something spectacular, because I knew these monks were not bluffing. They were perfectly serious about doing something pretty violent. In another civilization it might have taken the form of a bomb or something like that.
The monks were very much aware of the result that an immolation was likely to have. So by the time I got to the pagoda where all of this was being organized, it was already underway—the monks and nuns were chanting a type of chant that’s very common at funerals and so forth. At a signal from the leader, they all started out into the street and headed toward the central part of Saigon on foot. When we reached there, the monks quickly formed a circle around a precise intersection of two main streets in Saigon. A car drove up. Two young monks got out of it. An older monk, leaning a little bit on one of the younger ones, also got out. He headed right for the center of the intersection. The two young monks brought up a plastic jerry can, which proved to be gasoline. As soon as he seated himself, they poured the liquid all over him. He got out a matchbook, lighted it, and dropped it in his lap and was immediately engulfed in flames. Everybody that witnessed this was horrified. It was every bit as bad as I could have expected.
I don’t know exactly when he died because you couldn’t tell from his features or voice or anything. He never yelled out in pain. His face seemed to remain fairly calm until it was so blackened by the flames that you couldn’t make it out anymore. Finally the monks decided he was dead and they brought up a coffin, an improvised wooden coffin.
PW: And you were the only photographer there?
MB: As far as I could tell, yes. It turns out that there were some Vietnamese that took some pictures but they didn’t go out—they’re not on the wires or anything like that.
PW: What were you thinking while you were looking through the camera?
MB: I was thinking only about the fact it was a self-illuminated subject that required an exposure of about, oh say, f10 or whatever it was, I don’t really remember. I was using a cheap Japanese camera, by the name of Petri. I was very familiar with it, but I wanted to make sure that I not only got the settings right on the camera each time and focused it properly, but that also I was reloading fast enough to keep up with action. I took about ten rolls of film because I was shooting constantly.
PW: How did you feel?
MB: The main thing on my mind was getting the pictures out. I realized this is something of unusual importance and that I’d have to get them to the AP in one of its far flung octopus tentacles as soon as possible. And I also knew this was a very difficult thing to do in Saigon on short notice.
PW: What did you do with the film?
MB: The whole trick was to get it to some transmission point. We had to get the raw film shipped by air freight, or some way. It was not subject to censorship at that point. We used a pigeon to get it as far as Manila. And in Manila they had the apparatus to send it by radio.
PW: When you say pigeon, what do you mean exactly?
MB: A pigeon is a passenger on a regular commercial flight whom you have persuaded to carry a little package for him. Speed was of the essence obviously. So we had to get it to the airport. It got aboard a flight leaving very soon for Manila.
PW: Did anyone from the AP, once the film arrived, send a message to you saying that the picture was being published all over the world?
MB: No.
PW: You didn’t know?
MB: No, we didn’t know, it was like shooting into a black hole. We learned that it had arrived only after messages began to come through congratulating us for sending such a picture. It was not run by everybody.The New York Times did not run it. They felt it was too grisly a picture that wasn’t suitable for a breakfast newspaper.
PW: I’m looking at the picture now on my screen. Tell me what I’m not seeing —what are you hearing, smelling?
MB: The overwhelming smell of joss sticks. They do make a very strong smell, not a particularly nice smell, but it’s meant to appease the ancestors and all of that. That was the overwhelming smell except for the smell of burning gasoline and diesel and the smell of burning flesh, I must say. The main sound was the wailing and misery of the monks, who had known this guy for many years before and were feeling for him. Then there was shouting over loudspeakers between the fire department people, trying to figure out a way to put him out, put out the flames around him without actually killing him or something. So it was a jumble of confusion.
PW: I read once what President Kennedy said about your photograph. He said, “No news picture in history has generated so much emotion around the world as that one.”
MB: Yeah, that could be, that sounds like an honest quote from the White House.
PW: Would you consider the photograph your crown achievement in journalism?
MB: It attracted a lot of attention, I’ll say that for it. It was not necessarily the hardest story I’ve ever had to cover, but it was certainly an important part of my career.
Source:
http://time.com/3791176/malcolm-browne-the-story-behind-the-burning-monk/
Ảnh tư liệu xảy ra trong ngày 11-6-1963:
Diễn tiến cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức ngày 11-6-1963 (ảnh của: Malcolm Browne/ AP)